CCXiQi
CCXiQi


Hán Sở tranh hùng

Trang 1 trong tổng số 2 trang 1, 2  Next

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down

Bài gửi by Admin Wed Apr 22, 2015 6:10 am

Hán Sở tranh hùng Empty Hán Sở tranh hùng

Admin
Admin
Administrator
Administrator

Tổng số bài gửi : 5122
Points : 8388
Reputation : 1360
Join date : 21/11/2014
Đến từ : Tp.HCM

https://ccxiqi.forumvi.com
Hồi 1

Thâu sáu nước, Thủy Hoàng dựng nhà Tần

Oán trăm họ, dân gian hờn bạo chúa

Từ nhà Châu suy yếu, các chư hầu nổi dậy thôn tính lẫn nhau, tạo trong thiên hạ một thời hỗn loạn.

Thời ấy gọi là thời Chiến Quốc kéo dài 873 năm.

Bấy giờ thiên hạ gồm vào bảy nước: Tần, Sở, Triệu, Tề, Hàn, Ngụy, Yên.

Trong bảy nước ấy, nước Tần mạnh nhất. Trong có Thừa tướng Lã Bất Vi chuyên quyền, ngoài có tướng giỏi như Vương Tiễn chinh phạt diệt nhà Châu, kiêm tính sáu nước, đem thiên hạ về một mối.

Tần Thủy Hoàng Vua Tần là Thủy Hoàng con Dị Nhân (Chiêu Tương Dương) và Dương Hoa Chánh Hậu vốn là kẻ bạo ngược.

Sau khi thống nhất được sơn hà, cho mình là đấng anh hùng cái thế, cổ kim không ai sánh kịp, tự suy tôn hiệu Thủy Hoàng đế, đời thứ hai gọi là nhị thế, đời thứ ba gọi là tam thế, cho đến vạn thế, v.v...

Rồi chia thiên hạ ra làm 36 quận, vẽ một bức địa đồ thống nhất, bắt tất cả những mưu sĩ đem về an trí nơi Hàm Dương (Kinh đô nước Tần) đúc mười hai pho tượng để khoa trương nước nhà giàu mạnh, lập cung A Phòng ở vườn Thượng Lâm, tập họp tất cả những gái đẹp bốn phương về đó ước hơn nghìn người, ngày đêm tửu sắc vô độ.

Lã Bất Vi vì tư thông với Dương Hoa Thái Hậu, nên bị Tần Thủy Hoàng trừ đi lập Lý Tư lên thay thế.

Năm thứ 27, Thủy Hoàng hội quan thần, phán:

- Các vua thời xưa thường tuần du đây đó để quan sát dân tình. Nay trẫm muốn làm cái việc đó, các quan nghĩ sao ?

Sử chép rằng: Tần Thủy Hoàng tên Chính, là con riêng của Dương Hoa Chánh Hậu chứ không phải con của Dị Nhân.

Nguyên lúc Dị Nhân, hoàng tôn nước Tần, sang Triệu làm con tin, gặp Lã Bất Vi là một con buôn vàng ngọc, Lã Bất Vi thấy tướng mạo Dị Nhân đoán biết về sau ắt nối nghiệp nước Tần, liền đem người tiểu thiếp mình là Dương Hoa, đã có mang với mình hai tháng gả cho Dị Nhân. Dương Hoa sau này sinh ra Tần Thủy Hoàng. Vì vậy Tần Thủy Hoàng là con Lã Bất Vi chứ không phải con của Dị Nhân dòng dõi nước Tần.

Quần thần đều tâu:

- Nơi cửu trùng thăm thẳm, nếu không ngự giá tuần du làm sao rõ đặng lòng dân. Xưa nay những bậc anh quân đều lấy dân làm gốc, bệ hạ muốn như vậy thực hợp với cổ ý.

Thủy Hoàng hớn hở, truyền lệnh sửa sang xa giá, bắt đầu du hành từ phía Bắc đất Lũng Tây.

Trời không nắng lắm, xa xa cây cỏ một màu xanh, nhấp nhô bên các sườn núi miệt Kê Ðầu, trông khá đẹp mắt. Long xa sau trước, các quan cận thần và quân lính hầu hạ chật ních.

Bỗng trên đỉnh núi Kê Ðầu có một đám mây mờ, hiện ra năm vầng hào quang sáng chói.

Thủy Hoàng lấy làm lạ, đòi cận thần Tống Vô Kỵ đến hỏi.

Vô Kỵ tâu:

- Tâu Bệ hạ, hạ thần đã trông nhiều thứ mây như: tường vân, phù vân, thụy vân, tể vân, khánh vân, nhưng không có thứ mây nào giống thứ ám khí này. Ðây là một điềm ứng phi thường thật khó biết đặng.

Thủy Hoàng ngơ ngác hỏi:

- Thế thì phải làm sao để trừ được điềm lạ ấy ?

Vô Kỵ tâu:

- Xin Bệ hạ quay thánh giá sang phía Ðông Nam, lấy bảo vật mà yếm thì mới có thế trừ đặng hung khí.

Thủy Hoàng theo lời, thuyền xa giá đi về hướng Châu Dịch, bày lễ tế phong ở núi Ðông Nhạc và Thái Sơn, rồi lấy thanh bảo kiếm của mình thường đeo, yếm dưới chân núi.

Ðoạn qua sông Gian, sông Hoài, đến Nam quận, hồi giá về Hàm Dương. Quần thần ra khỏi Kinh đô ba mươi dặm đón rước.

Từ đấy lúc nào Thủy Hoàng cũng nghĩ đến vừng vận khí ở phương Ðông Nam lòng không vu.

Một hôm có viên cận thần đến tâu:

- Mấy hôm nay khí trời mát mẻ, nơi Ngự lâm viên trăm hoa đua nở, xin Bệ hạ mệnh giá qua chơi để giải trí.

Ðang lúc lòng buồn bự, Thủy Hoàng nhận lời, dẫn một bọn cung phi và mấy viên cận thần đến vườn Ngự lâm ngoạn cảnh.

Tiếng gió rì rào thổi phất phơ những cành hoa vừa hé nhụy, trong quang cảnh tưng bừng của bình minh.

Thủy Hoàng dạo gót khắp nơi. Mãi cho tới lúc ánh nắng bắt đầu gay gắt, Thủy Hoàng thấy mình rồng mõi mệt, liền lên Hiễn Thánh điện để nghĩ.

Giấc điệp mơ màng, Thủy Hoàng chợt nghe bên tai một tiếng nỗ long trời lở đất.

Rồi một vầng thái dương đỏ ửng từ trên trời rơi xuống.

Bỗng thấy một đứa bé áo xanh, mặt đen chạy đến ôm vầng thái dương toan chạy. Liền lúc đó, lại có một đứa bé khác, mặc áo đỏ, đôi mắt sáng quắc từ phương Nam chạy đến hét lớn:

- Tên áo xanh kia ! Hãy để vầng thái dương đấy. Ta vâng lệnh Ngọc hoàng đến lấy vàng thái dương đây.

Ðứa bé áo xanh không chịu, cả hai ôm nhau vật lộn. Ðứa bé áo xanh vật ngã đứa bé áo đỏ bảy mươi hai lần. Nhưng bất thình lình đứa bé áo đỏ đá một đá thật mạnh, đứa bé áo xanh ngã lăn xuống đất chết tươi.

Thủy Hoàng thấy vậy kêu lên:

- Hỡi hài đồng kia ! Ðừng vội đoạt vầng thái dương, hãy bảo cho ta biết chúng bay là ai ?

Ðứa bé đáp:

- Ta là dòng dõi Thuấn Nghiêu, quê ở Phong Bài vì dân dấy nghĩa. Thượng đế đã cho ta hưỡng lịch bốn trăm năm.

Nói xong, đứa bé áo đỏ ôm vầng thái dương chạy biến về phương Nam. Thủy Hoàng đưa mắt nhìn theo bóng đứa bé mờ dần rồi khuất sau vầng hào quang giống như vầng vân khí nơi núi Kê Ðầu.

Thủy Hoàng bừng mắt tĩnh dậy, mới biết đó là chiêm bao, lòng bâng khuâng tự nghĩ:

- Giấc mộng này lành ít dữ nhiều. Nhà Tần ta có lẽ vận mạng đã hết, thiên hạ ắt về tay kẽ khác....

Liền truyền xa giá trở về cung. Từ đó lòng buồn bã lo âu, không lúc nào vui.

Một hôm Thủy Hoàng cùng quần thần bàn tính, muốn tìm thuốc trường sanh bất tử để sống làm vua mãi, hưỡng cảnh lạc thú hồng trần.

Cận thần Tống Vô Kỵ tâu:

- Ở miền Ðông Hải có ba đỉnh núi thần, phong cảnh tốt tươi, cỏ hoa muôn vẽ, khí hậu ấm áp, hạ thần chắc đó là nơi bồng lai, có thể tìm thuốc trường sinh được.

Thủy Hoàng mừng rỡ, phán:

- Khanh đã bao giờ đến đó chưa ?

Vô Kỵ tâu:

- Hạ thần chưa đến, nhưng có một người bạn tên Từ Phúc, lúc trước từng qua chơi nơi Ðông Hải, gặp các tiên cỡi loan hạc, phong độ thoát phàm. Từ Phúc hiện nay còn ghé chơi nơi nhà hạ thần, nếu Bệ hạ tin dùng, hạ thần sẽ đưa vào yết kiến.

Thủy Hoàng liền sai Vô Kỵ cấp tốc đi triệu Từ Phúc.

Từ Phúc theo Vô Ky vào bệ kiến.

Thủy Hoàng phán hỏi cách tìm thuốc trường sinh, Từ Phúc tâu:

- Thuốc trường sinh là một món thuốc quý, từ xưa nay khó có ai tìm được. Nay Bệ hạ muốn có thuốc ấy tất phải chịu tổn phí, đóng thuyền và cấp hành trang cho hạ thần vượt bể thì mới tìm được.

Thủy Hoàng hỏi:

- Nhà ngươi cứ hết lòng giúp trẫm, nếu được, hai ta cùng uống và cùng sống mãi hưởng cảnh vàng son; Còn gì hạnh phúc bằng. Chẳng hay nhà ngươi muốn đóng bao nhiêu thuyền, và hành trang như thế nào ?

Từ Phúc tâu:

- Vượt bể Ðông chẳng phải chuyện dễ. Cần có mười chiếc thuyền lớn, trong thuyền phải đủ hạng thợ, và phải kén lấy năm trăm đồng nam, năm trăm đồng nữ, phòng khi dùng đến.

Thủy Hoàng liền hạ lệnh sắm đủ mọi thứ cho Từ Phúc ra đi.

Tháng ngày trôi qua như ngựa qua cửa sổ, chẳng mấy chốc đã hơn năm tháng trời, Thủy Hoàng ôm lòng chờ đợi mãi mà chẳng thấy Từ Phúc trở về.

Quá nóng lòng, Thủy Hoàng liền sai một người nho sĩ là Lư Sinh đi tìm Từ Phúc.

Ôi ! Bốn phưong mù mịt, Từ Phúc ra đi như bóng nhạn lưng trời, biết đâu mà tìm. Tuy nhiên, lệnh vua đã phán, ai dám trái lời, Lư Sinh đành vâng chỉ, một mình cất bước ra đi.

Ði mãi, đến bờ bể, vời trông chỉ thấy sóng gào gió thét trong khoảng nước xanh trời thẳm, bát ngát muôn trùng, chẳng biết đâu là bồng lai, đâu là tiên giới.

Lư Sinh ngước mặt lên trời thờ dài, nghĩ thầm:

- Thủy Hoàng là một bạo chúa, tham sống mà coi rẻ mạng người. Nếu ta không tìm được Từ Phúc trở về, tánh mạng ắt chẳng còn. Thôi thì cứ nhắm mắt đưa chân, rủi có chết thì cũng như Từ Phúc, một đi không về thế là xong.

Lư Sinh lần theo hướng Nam, đi vào miền núi Thái Nhạc, rồi đến núi Thái Hoa.

Suốt mấy tháng trường trong gian khổ, bỗng một hôm Lư Sinh gặp một người hình dung cổ quái, đầu bù tóc rối, mắt tròn như lục lạc, đang ngồi tựa một phiến đá, nhìn về hướng trời xa.

Lư Sinh nghĩ thầm:

- Nơi đây sơn lâm cùng cốc, người thường đâu dễ mấy ai mò đến, chắc là một dị nhân.

Liền bước đến vái chào. Dị nhân quay lại thấy Lư Sinh, liền hỏi:

- Người là ai. Có việc gì lại đến đây ?

Lư Sinh đáp:

- Thưa tiên sinh, tôi vâng ìệnh Thủy Hoàng đi tìm thuốc trường sinh bất tử.

Dị nhân cười lớn nói:

- Con người sống chết đã do mệnh trời định sẳn, sao lại có ý ngông cuồng như vậy. Làm gì có thuốc trường sinh bất tử.

Lư Sinh nhìn tướng mạo dị nhân một lúc, biết không phải người phàm nên cố năn nỉ:

-Tôi là người phàm mắt thịt, trí não u ám, xinn tiên sinh thương tình cứu tôi thoát nạn.

Dị nhân thấy Lư Sinh khẩn khoản ngồi im ra vẽ suy nghĩ. Một lúc dị nhân đứng dậy đưa tay đẩy tấm vách đá, bên trong lộ ra một cửa hang rất lớn.

Lư Sinh thất kinh lòng chưa hết ngạc nhiên thì dị nhân đã bước vào trong, cầm một quyển sách đem ra đưa cho Lư Sinh, và nói:

- Hãy đem sách này về cho vua Tần xem , trong đó có nói rõ về " sinh tử tồn vong ".

Lư Sinh tiếp lấy thấy trên bìa sách có đề bốn chữ "Thiên Lục Bí Quyết " toan hỏi lại nhưng Dị nhân đã bước lên ngồi bên phiến đá mắt nhắm nghiền như ngũ say.

Lư Sinh không dám hỏi nữa, cầm sách trở về dâng cho Thủy Hoàng thuật lại mọi việc.

Thủy Hoàng mở sách ra xem, bên trong chép theo lối cổ tự, chữ ngoằn ngoèo rất khó đọc,liền sai Lý Tư dịch ra.

Lý Tư đọc cho Thủy Hoàng nghe. Ðó là sách nói về việc thuyên chuyển của lịch đại. Lại có câu rằng "Vong Tần giả Hồ "

Thủy Hoàng thất kinh nói:

- Cứ như trong sách thì rợ Hồ sẽ làm mất nhà Tần.

Liền sai Mông Ðiềm đem tám mươi vạn dân phu ra ngoài biên ải đắp trường thành để phòng rợ Hồ.

Ngoài ra con bắt thêm dân chúng khắp nơi, bất luận già trẻ đều phục dịch cho công tác ấy.

Dân chúng khổ cực trăm bề, quanh năm suốt tháng, áo chỉ còn bâu, người chỉ còn bộ xương, đói khát, con xa mẹ, vợ xa chồng, mồ hôi lộn nước mắt, thây vùi khắp chân trường thành, oán hận ngút trời.

Thủy Hoàng lại sợ đời sau chê cười, và có kẽ rõ được hành động mình nên truyền đốt sách chôn sống học trò ước hơn 460 người.

Lại ra nghiêm lệnh hễ ba người tụ họp nói chuyện xầm xì thì phạm vào tội chết chém.

Một lời phán gớm ghê của bạo chúa làm chấn động cả nhân gian.

Người con trưởng Thủy Hoàng là Phù Tô thấy cha tàn ác quá. vội can:

- Sách vở là văn học của một nước, học trò là tiêu biểu cho thế hệ đời sau. Phụ vương hủy hoại đi e thiên hạ oán vọng, ngôi nhà Tần khó giử được.

Thủy Hoàng nổi giận, hét:

- Nghịch tử dám dùng lời vô lễ với trẫm sao ?

Tức thì ra lệnh đày Phù Tô ra Bắc biên làm chức Giám Quân cùng với Mông Ðiềm coi việc đắp trường thành. Cấm không được về Kinh đô nữa.

Tuy nhiên Thủy Hoàng vẫn còn lo sợ vần vân khí ở miền Ðông Nam, e có kẽ ngầm mưu loạn, nên truyền xa giá tuần du về miền ấy để trấn áp sanh linh.

Thuở đó, nơi phía Nam, cách nước Hàn lối ba mươi dặm, có một quán rượu, thường ngày các bô lão trong vùng đến đó bắt chén giải buồn.

Một hôm có bốn cụ già ngồi khề khà nhìn mây, nhìn nước trao đổi tâm tình.

Trong số bốn cụ già ấy có một người tên Triệu Tam Công, nhân lúc cao hứng, nói:

- Các ngài ơi ! Trăm năm về trước, thiên hạ thái bình, con người sống trong cảnh đáng sống, không một chút gì bận tâm nhọc trí cả. Ðời sống như thể chẳng khác gì chốn tiên bồng.

Một cụ già đặt chén xuống bàn, vuốt râu nhìn Triệu Tam Công hỏi:

- Thế thì ngài cho cõi đời này là trần tục sao ?

Triệu Tam Công lắc đầu đáp:

- Không phải là trần tục mà chính là địa ngục trần gian.

Ba cụ già già đồng vỗ tay cười lớn. Một cụ hỏi:

- Theo ngài thì những cực hình ghê gớm nhứt của chốn địa ngục dương trần này là gì ?

Triệu Tam Công lè lưỡi, đáp:

- Chịu thôi. Bây giờ phép nước nghiêm lắm, tôi không dám bàn đến chuyện đó.

Một cụ đưa mắt nhìn xung quanh, rồi nói:

- Nơi đây hẻo lánh, chỉ có ta với ta, hà tất phải ngại !

Bỗng từ bên trong hàng rượu có một thiếu niên bước ra, vừa cười vừa nói:

- Thưa các cụ, nếu có kẻ nào sợ pháp luật không dám nói, tôi xin thay kẻ ấy nói giúp vậy.

Mọi người quay nhìn thiếu niên. Người ấy mặt tròn, mắt sáng, áo vải, giày vai, trông ra vẻ một thiếu niên anh tuấn.

Triệu Tam Công nói:

- Nếu tiểu tử đủ can đảm, xin thay ta, nói cho các vị bô lão này nghe thử.

Thiếu niên ung dung nói:

- Thưa các cụ, các cụ còn lạ gì chánh sách của bạo chúa Tần Thủy Hoàng ! Con trai không được yên phận cày cấy, con gái không được yên phận canh cửi, cha xa con, vợ lìa chồng, gia đình tan tác. Nào đắp trường thành, nào dựng A Phòng, đốt sách vở, chôn sống học trò, nghe lời đứa dua nịnh lập ra phép dữ, oán khí ngất trời. Nghĩ làm thân trong chế độ này chẳng khác nào một tội nhân sống trong hỏa ngục ! Nhục nhã thay !

Người thiếu niên còn muốn nói nữa, nhưng Triệu Tam Công đã bỏ đứng dậy toan chạy.

Ba vị bô ìão nói:

- Nơi đây xa cách kinh kỳ, việc gì ngài lại sợ hãi đến thế ?

Triệu Tam Công thở dài, nói:

- Dầu trong hang cùng ngõ hẻm cũng có mặt kẻ do thám của triều đình. Tai vách mạch rừng, các ngài chớ khinh khi mà rơi đầu vô ích.

Người thiếu niên thấy vậy, than thầm:

- Ôi ! Nhân tâm như thế thì nỗi niềm riêng cũa ta biết tõ cùng ai !
Về Đầu Trang Go down
  • Trả lời chủ đề này

Bài gửi by Admin Wed Apr 22, 2015 6:11 am

Hán Sở tranh hùng Empty Re: Hán Sở tranh hùng

Admin
Admin
Administrator
Administrator

Tổng số bài gửi : 5122
Points : 8388
Reputation : 1360
Join date : 21/11/2014
Đến từ : Tp.HCM

https://ccxiqi.forumvi.com
Hồi 2

Hài Công trọng nghĩa đâm bạo chúa

Triệu Cao cải mệnh, mưu thay vua

Người thiếu niên này vốn dòng nho sĩ, quê ở nước Hàn, họ Trương tên Lương, tự là Tử Phòng.

Tổ tiên Trương Lương năm đời làm danh sĩ nước Hàn. Từ khi Tần Thủy Hoàng diệt nước Hàn, Trương Lương đêm ngày ôm hờn vong quốc quyết chí báo thù bỏ ra nghìn nén vàng, đi khắp thiên hạ, liên kết với các dũng sĩ để bàn việc thích khách bạo chúa.

Trong lúc Trương lương đang ngẩn người, buồn thế sự thì đàng sau có một tráng sĩ chạy đến chào Trương Lương, và nói:

- Vừa rồi nghe ngài kể tội ác của Thủy Hoàng, lòng tôi bỗng dưng hậm hực. Nếu ngài muốn làm việc nghĩa cử, trừ hôn quân dâm bạo, tôi xin nguyện đem thân giúp sức.

Trương Lương thấy người ấy mình cao một trượng, tướng mạo đoan trang, biết là bậc phi thường, liền cầm tay, nói:

- Chỗ này không phải nơi thố lộ tâm tình, xin tráng sĩ về nhà tôi đàm đạo.

Tráng sĩ theo Trương Lương về nhà.

Trà nước xong, Trương Lương hỏi:

- Xin tráng sĩ cho biết quý danh ?

Tráng sĩ đáp:

- Tôi họ Lê, quê ở Hải Biên nên người ta thường gọi là Thượng Hải Công. Vốn có sức mạnh, có thể cầm nổi cây chùy nặng trăm cân, tôi thường đi đây đó, vì lòng nhân trừ kẻ hống hách, bạo ngược. Nhân thấy ngài là kẻ khẳng khái đem lòng mến, chẳng hay quý hiệu là chi ? Và có điều gì cần sai bảo tôi chăng ?

Trương Lương nói:

- Tôi người nước Hàn, họ Trương tên Lương, năm đời nhà tôi làm khanh tướng, không may vừa rồi Thủy Hoàng diệt mất nước. Thù vong quốc chẳng lúc nào nguôi.

Nay Thủy Hoàng bạo ngược, trăm họ lầm than, tôi muốn trừ đi trước cứu thiên hạ, sau rửa quốc thù. Nếu tráng sĩ chịu giúp tôi làm việc đó, sẽ lưu tiếng lại thiên thu.

Hải Công hớn hở xua tay nói:

- Tôi nguyện tuân theo lời ngài.

Trương Lương mừng rỡ, lưu tráng sĩ Hải Công lại nhà mình rồi thám thính xem Thủy Hoàng chuyến này tuần du về lối nào.

Cách mấy hôm sau, Trương Lương được tin Thủy Hoàng qua huyện Vũ Dương, liền sai Thượng Hải Công nấp nơi một gò cao, đợi xe giá Thủy Hoàng đến, thích khách.

Tiếng trống rập rềnh từ xa vẳng đến, rồi long xa ló dạng.

Hải Công tay cầm chặt thanh chùy đứng chờ.

Tiếng bánh xe nghiến trên đường đất, qua cụm gò cao.

Nhanh như chớp, Hải Công nhảy ra, cầm chùy đánh vào long xa bể nát.

Nhưng xe nát mà Thủy Hoàng không chết !

Vì Thủy Hoàng tự biết mình có những hành động tàn bạo, sợ thiên hạ ám hại, nên đã đề phòng trước, sắm hai chiếc long xa, một chiếc để ngự lúc du hành, còn một chiếc để không, sai quân sĩ đẩy đi trước.

Thế là Trương Lương đã thất bại !

Ngự lâm quân áp lại, bắt Thượng Hải Công dẫn đến nạp cho Tần Thủy Hoàng.

Thủy Hoàng nghiến răng hét:

- Ai xui nhà ngươi làm cái việc phản nghịch đó ?

Thượng Hải Công trừng mắt đáp:

- Mày là một vị hôn quân vô đạo, khắp thiên hạ đều oán hận muốn giết mày. Ta muốn vì dân trừ hại, sao mày hỏi ngu thế ?

Thủy Hoàng nổi giận, truyền quân đem Hải Công ra tra tấn, quyết hỏi cho được kẻ chủ mưu.

Hải Công cười lớn, rồi đập đầu xuống đá tự vận.

Trương Lương lòng đau như cắt, dậm đất, kêu trời than:

- Trời ơi ! Cái thù của nước Hàn ta biết bao giờ mới trả được. Hận quốc dân biết thuở nào nguôi. Trời nỡ dung tha một kẻ hôn quân, bạo chúa để cho muôn dân sống mãi trong lầm than sao ?

Trương Lương bùi ngùi bỏ trốn sang Hạ Bì, đến trú nơi nhà Hạng Bá.

Hạng Bá là cháu Hạng Yên, trươc kia từng làm tướng nước Sở, với Trương Lương là bạn thân, nên giấu Trương Lương trong nhà không để lộ tông tích.

Khối buồn đọng mãi không tan, thỉnh thoảng Trương Lương ra ngoài dạo cảnh.

Một hôm, bóng chiều vừa xế, khóm trúc bên cầu xào xạc trước ngọn gió lê thê, Trương Lương lểnh mểnh quanh chân suối, lòng ngổn ngang trăm mối u buồn, bỗng thấy một ông già đi ngang qua cầu, làm rơi chiếc giày xuống nước rồi kêu Trương Lương nói:

- Này tiểu tử, hăy lại đây lượm chiếc giày cho ta.

Trương Lương thấy ông lão có dáng tiên phong đạo cốt, biết không phải người thường liền bước đến, cúi lượm chiếc giày trao cho ông lão rất kính cẩn.

Ông lão xỏ chân vào giày rồi lại đánh rơi xuống nước. Trương Lương nhặt, cứ thế đến ba lần.

Trương Lương vẫn với cử chỉ kính cẩn không hề tỏ ý bất mãn.

Ông lão mĩm cười nhìn Trương Lương nói:

- Thằng bé này có thể dạy được đây !

Liền chỉ vào gốc cổ thụ gần đó nói:

- Năm ngày nữa, ngươi đến gốc cây này, ta sẽ cho một vật quý ! Chớ sai hẹn !

Trương Lương cúi đầu vâng mệnh.

Năm hôm sau, Trương Lương dậy sớm, y ước đến chổ gốc cây thấy ông già đã ngồi chờ sẵn nơi đó.

Ông già nhìn Trương Lương mắng:

- Ðã hẹn với kẻ trượng phu cớ sao lại đến trễ ? Thôi, ta hẹn cho năm ngày nữa, hôm đó phải đến cho sớm.

Năm hôm sau, đầu trống canh năm, Trương Lương thức dậy ra gốc cây, dè đâu ông lão lại cũng đã ngồi ở đó rồi.

Ông lão mắng:

- Sao ngươi biếng nhác như thế. Hôm nào cũng để ta phải chờ đợi ? Thôi, ta hẹn cho năm ngày nữa.

Lần này, Trương Lương không ngủ, suốt đêm ra gốc cây ngồi chờ.

Trống canh năm vừa điểm, ông lão ìểnh mểnh đến.

Trương Lương sụp lạy, nói:

- Kính thưa tiên sinh có gì chỉ dạy, xin thương tình sai bảo.

Ông lão nói:

- Ta xem tiểu tử cốt cách thanh kỳ, nếu biết dùng tuổi xanh lo việc học tâp, sau này có thể đồ vương định bá được. Nay ta cho ngươi ba quyển bí thư, trong có đủ kỳ mưu, thần toán. Dù Tôn, Ngô phục sinh chưa chắc bì kịp. Ngươi khá nhận lấy học tập, trước vì nước Hàn báo thù, sau vì thiên hạ giúp chân chúa đem lại thái bình, để khỏi phụ tình tri ngộ.

Trương Lương tiếp nhận ba quyển sách, quỳ mọp xuống đất tạ ơn, và hỏi:

- Tiểu tử muốn biết đại danh của tiên sinh, xin tiên sinh cho phép.

Ông lão nói:

- Ba năm nữa, nơi phía Ðông thành Ðại Cốc có một cái lăng của một vị đế vương, trong đó có một hòn đá vàng hoàng thạch tức là ta đó.

Trương Lưong nghe nói ngạc nhiên, ngẩng mặt lên thì ông lão đã đi đâu mất.

Trương Lương trở về nhà Hạng Bá, mở sách ra xem thấy đó là bộ "Thái Công binh pháp " ngày đêm cố gắng học tập để đợi thời cơ.

Giữa lúc đó, Thủy Hoàng đi Ðông du, qua địa phận Từ Châu. Nơi đây hoa màu tươi tốt, cây cối khác thường.

Nhân dân trong hạt đem đến dâng cho Thủy Hoàng một cây lúa trổ ba bông.

Thủy Hoàng đắc ý, khen thưởng mọi người rồi truyền xa giá sang phía Ðông Nam, đi về huyện Bái.

Vừa đến nơi, Thủy Hoàng chợt thấy trên đỉnh núi cao, xuất hiện một vầng hào quang sáng chói.

Thủy Hoàng cau mày, gọi Lý Tư nói:

- Hào quang xuất hiện, nơi đây ắt có nhân tài. Cần phải tìm giết đi để khỏi di hại về sau.

Lý Tư tâu:

- Vân khí xuất hiện là chuyện thường, nay bệ hạ tuần du mà sai người dò thám, bắt bớ e lòng dân náo động chăng ?

Thủy Hoàng nghe lời ấy, thôi không sai người dò thám bắt bớ nữa.

Một hôm, Thủy Hoàng ngự giá đến Cối Kê, dân chúng hai bên đường đều phục lạy tiếp đón.

Trong đám dân chúng ấy, bỗng có một chàng trai toan đứng dậy nhảy xổ đến đâm Thủy Hoàng.

Tuy nhiên, hành động chưa phát lộ, thì có một ông lão biết ý cản lại, kề tai nói nhỏ:

- Không nên ! Ðại trượng phu phải lập nghiệp lớn, để tiếng thiên thu, lẽ nào bắt chước những tay thích khách tầm thường !

Chàng trai cho là phải, không hành động nữa.

Chàng trai ấy là Hạng Tịch, tên chữ là Vũ, quê ở Hạ Tượng, còn ông lão kia là Hạng Lương, chú của Hạng Vũ đó.

Từ thuở bé, Hạng Vũ theo nghiệp văn, nhưng văn dốt, Hạng Vũ sang nghề võ, nhưng kiếm thuật lại không lành.

Người chú là Hạng Lương thường mắng:

- Mày học hành chẳng ra sao, lớn lên chỉ là một tên côn đồ dốt nát.

Hạng Vũ nói:

- Thưa chú học chữ chẳng qua để biên chép mòn ngày, còn học kiếm chẳng qua cũng chỉ địch nổi một vài người mà thôi. Hai môn ấy không ích nên cháu không gắng.

Hạng Lương giận hỏi:

- Thế thì mày muốn học thứ gì để gọi là ích lợi ?

Hạng Vũ thưa:

- Cháu muốn học nghề gì mà nhất địch vạn nhân, như thế ngày sau mới có thể đem thân ra tranh đấu với thiên hạ được.

Hạng Lương thấy cháu có y lạ liền lấy các sách binh pháp ra dạy. Môn này dạng Vũ thích học, song cũng chỉ học những cái đạicương mà thôi.

Hai chú cháu đang ôm mộng lập nghiệp thì hôm ấy Thuy Hoàng tuần du đến.

Hạng Vũ vốn ghét Thủy Hoàng dâm bạo muốn giết đi, nhưng Hạng Lương kịp cản lại.

Từ đấy hai chú cháu chu du khắp thiên hạ, chiêu tập nhân tài để mưu đồ đại sự.

Lý Tư thấy Thủy Hoàng đi đến đâu cũng gặp chuyện chẳng lành, dân chúng khiếp sợ lẩn tránh liền tâu Bệ ha. Bệ hạ tuần du đã lâu, trong thiên hạ đều biết rõ uy vũ. Xin Bệ hạ khá hồi loan sửa sang chính trị, giữ gìn biên cương để an dưỡng mình rồng, bớt điều khổ nhọc.

Thủy Hoàng suy nghĩ một lúc rồi truyền xa giá hồi loan.

Ði đến địa phận Duyên Châu trời tối, Thủy Hoàng nằm ngủ, bỗng mơ càng giấc điệp trông thấy một vị Long thần hiện đến cùng với Thủy Hoàng giao chiến, Thủy Hoàng cầm cự hồi lâu, nhắm sức không cự nổi, bõ chạy.

Chạy đến một bờ biển. nước xanh cuồn cuộn, sóng gió hải hùng. Ðang cơn nguy cấp bỗng có một con Xích long từ trên trời sa xuống, hả mồm ngoạm lấy Thủy Hoàng nuốt đi. Thủy Hoàng thất kinh, giật mình thức dậy, mồ hôi ướt cả long bào, tay chân rũ rượi.

Biết điềm mộng chẳng lành Thủy Hoàng lo lắng sinh bệnh.

Ði đến đất Sa Khâu, bệnh thế càng nặng, Thủy Hoàng liền gọi Lý Tư đến nói:

- Trẫm biết không còn sống để thụ hưởng cảnh vinh hoa nữa. Nếu vạn nhất Trẫm cố băng hà, khanh nên đến Thượng Quận đón Thái tử Phù Tô về kế vị. Như vậy thiên hạ mới mong lạc nghiệp được.

Nói xong, lại viết tờ di chúc và giao ngọc tỷ cho Lý Tư.

Lý Tư sụp lạy nhận mệnh. Thủy Hoàng nói:

- Ngươi phò Trẫm đã lâu, các việc lớn nhỏ Trẫm đều phó thác cả. Vậy phải hết lòng vì nước chớ trái lời di chúc này. Thái tử Phù Tô là người nhân ái có thể dùng đức cải oán thiên hạ được. Ta tiếc rằng đời ta đã dùng bạo lực, phương thức không hay đối với chánh sách trị nước.

Nói đến đấy, Thủy Hoàng thở hơi cuối cùng.

Lý Tư liền tẫm liệm, rồi đưa thi thể về Hàm Dương, sai người đi triệu Phù Tô về phát tang.

Triệu Cao cản lại nói:

- Không nên ! Thái tử Phù Tô lâu nay không tín nhiệm bọn ta. Nếu Thừa Tướng lập Phù Tô lên ngôi chẳng những chúng ta mất chức, mà còn nguy hiểm đến tính mệnh nữa.

Lý Tư nói:

- Nhưng mệnh vua, làm trái sao đành.

Triệu Cao cười nhạt, nói:

- Ðành vậy. Nhưng giữ lời di chúc mà thân phải lụy, thà phụ lời di chúc mà giữ được địa vị còn hơn. Thừa Tướng đối với Thái tử đâu bằng Mông Ðiềm.

Lý Tư thở dài hỏi:

- Theo ý ngài nên làm thế nào ?

Triệu Cao nói:

- Hãy đổi tờ di chúc, lập Công tử Hồ Hợi lên nối ngôi.

Lý Tư trầm ngâm một lúc, quyền lợi bản thân thắng đạo đức, ngẩng nhìn Triệu Cao nói:

- Vâng, tôi xin theo lời ngài.

Triệu Cao mừng rỡ, đến tìm Công tử Hồ Hợi nói:

- Nghiệp đế vương ngày nay mất còn chỉ có Công tử, Thừa Tướng và tôi định đoạt. Tiên vương di chiếu lập Thái tử Phù Tô, chúng tôi xét thấy quyền hành công tử sau này sẽ mất hết. Chúng tôi xin vì công tử, lập công tử lên kế vị.

Hồ Hợi cau mày nói:

- Ôi chao ! Sao các ngài có ý nghĩ như thế ? Bỏ anh lập em là trái nghĩa, bỏ lời di chúc của Tiên vương là bất trung, con không theo lời cha là bất hiếu. Kẻ đã bất trung, bất hiếu, bất nghĩa thì ai còn phục. Tôi không thể nghe theo lời các ngài được !

Triệu Cao nói:

- Ðấng trượng phu không nên câu nệ những tiểu tiết mà bỏ đại sự. Cơ hội ngàn năm một thuở. Phú quý về tay mà không tiếp nhận, dẫu sau hối hận cũng chẳng ích gì.

Hồ Hợi nghe Triệu Cao nói bùi tai, gật đầu đáp:

- Ừ ! thế thì các ngài hành động cách nào tùy ý.

Triệu Cao lập tức trở về thuật lại với Lý Tư rồi đổi tờ di chúc, sai Diêm Nhạc đem chiếu giả đến Thượng Quận, bắt Phù Tô phải tự tử. Ðoạn lập Hồ Hợi lên ngôi.

Diêm Nhạc đến Thượng Quận truyền lệnh cho Phù Tô ra tiếp chiếu.

Phù Tô vội vàng ra sụp lạy.

Diêm Nhạc mở chiếu đọc rằng:

"Nhà Ðại Tần ngày... tháng... năm thứ 37.

Thủy Hoàng đế hạ chiếu:

Ðời Tam Ðại lấy hiếu trị thiên hạ, gây mối cương thường. Con không nghe cha là bất hiếu, tôi không nghe vua là bất trung. Kẻ bất trung, bất hiếu không dáng làm chủ thiên hạ.

Nay trưởng tử Phù Tô cải mệnh cha, không trọn đạo làm con. Cứ lấy tình cha con thôi có thể dung thứ được, song theo phép tổ tiên không thể khoản miễn.

Vậy chiếu lập Hồ Hợi làm Thái Tử, truất Phù Tô xuống thứ dân, trao cho một chén độc dược và một thanh gươm để tự xử lấy thân.

Còn như tướng Mông Ðiềm cầm quân cõi ngoại, không ích lợi gì cho nước, chỉ làm hao tốn muôn dân, lẽ ra phải theo pháp gia hình, nhưng vì trường thành chưa xong, tạm để cho Mông Ðiềm ở đó đôn đốc công việc.

Chiếu chỉ đến nơi, phải lập tức tuân theo. Khâm Thử."

Phù Tô nghe xong khóc lớn, nói:

- Ôi ! Vua bảo chết. Tôi không thể không tuân, cha bảo chết con không thể cải mệnh. Nay Phù Tô này xin lãnh thanh gươm và độc dược cho trọn niềm trung hiếu.

Mông Ðiềm cản lại nói :

- Xin Ðiện hạ xét lại đã. Bệ hạ sai hạ thần đem ba mươi vạn quân đóng nơi biên cương, lại sai Ðiện hạ đến làm Giám Ðốc. Ðã giao trọng trách như thế lẽ nào còn bắt chết ! Tôi e trong triều có điều gì gian trá xin Ðiên hạ về triều thĩnh tội để rõ ngay gian.

Phù Tô lắc đầu, nói:

- Bình nhật phụ vương tôi ghét bỏ tôi, nay bắt chết là do thánh ý, tôi không muốn cải lời.

Nói xong, sai quân đem thuốc độc đến, uống một hơi cạn chén .

Phù Tô chết, Mông Ðiềm thương tiếc vô cùng, ôm thây khóc mãi. Ba quân ngậm ngùi rơi lệ.

Diêm Nhạc thấy Phù Tô đã chết, trở về báo với Hồ Hợi.

Hồ Hợi liền làm lễ tức vị xưng hiệu là Nhị Thế hoàng đế.

Từ đó, quyền hành trong nước về tay Lý Tư và Triệu Cao chuyên chế.

Hai người lập ra hình pháp rất nghiêm khắc, cốt trấn áp lòng dân, mưu lợi riêng, không kể đến cái hại vong quốc sau này.

Các quan đại thần trông thấy đều chán ngán, không muốn tham dự việc nước.

Vua Nhị Thế thấy Mông Ðiềm thống lãnh hơn ba vạn quân ngoài biên ải, còn thân thuộc đều ở nơi kinh thành, sợ sinh biến liền truyền chỉ đem chém hết.

Quan Ðại thần Tử Anh can:

- Tâu bệ hạ, họ Mông vốn dòng dõi đại thần, nay bệ hạ mới trị nước mà trừ bỏ đại thần e lòng dân ly tán. Xin bệ hạ dùng đức khoan hồng thay cho uy vũ để trị dân.

Nhị Thế không nghe, truyền đem tộc thuộc Mông Ðiềm giết hết.

Mông Ðiềm hay tin ấy, ngước mặt lên trời than:

- Nhà ta ba đời có công lớn với nước Tần, nay vua Tần tin dùng kẻ gian nịnh hủy hại tôi hiền. Ta cầm trong tay ba chục vạn quân, đủ sức phản lại. Nhưng thà chịu chết chứ không để làm mất tiếng trung liệt của tổ tiên.

Ðêm ấy, Mông Ðiềm uống thuốc độc tự vận.

Vua Nhị Thế nghe tin Mông Ðiềm chết, lập tức truyền chỉ ra Thượng quận bắt anh em con cháu Mông Ðiềm đày qua Thục quận.

Bình nhật, Triệu Cao và Lý Tư chỉ sợ có Phù Tô và Mông Ðiềm, nay hai người ấy đều chết cả, nên không còn kiêng nễ ai nữa.
Về Đầu Trang Go down
  • Trả lời chủ đề này

Bài gửi by Admin Wed Apr 22, 2015 6:11 am

Hán Sở tranh hùng Empty Re: Hán Sở tranh hùng

Admin
Admin
Administrator
Administrator

Tổng số bài gửi : 5122
Points : 8388
Reputation : 1360
Join date : 21/11/2014
Đến từ : Tp.HCM

https://ccxiqi.forumvi.com
Hồi 3

Trãm bạch xà, Lưu Quý dấy binh

Ðánh quân Tần, Hạng Lương khởi nghĩa

Triệu Cao và Lý Tư từ khi lập vua Nhị Thế lên ngôi, ra sức vơ vét của cải dân chúng, xui vua Nhị Thế hành phạt sinh linh, tất cả những nguy cơ trong nước đều dấu nhẹm không cho vua Nhị Thế biết.

Trộm cướp nỗi dậy khắp nơi, các tay anh hùng hào kiệt đua nhau chiêu tập binh mã để mưu đồ quốc sự.

Khắp các miệt Sơn Ðông, Sơn Tây, Hồ Nam, Hồ Bắc và quanh vùng Ngô, Sở không chỗ nào không có giặc giả.

Trần Thắng khởi binh ở đất Tần, Vũ Thần khởi binh ở đất Triệu, Lưu Bang khởi binh ở đất Bái, Hạng Lương khởi binh nơi đất Ngô, bốn biển tung hoành, rộn ràng gươm giáo. Cái họa vong quốc đã đến nơi, thế mà vua Nhị Thế không hay biết gì cả, ngày đêm mải mê tửu sắc nơi cung A Phòng.

Trong số hào kiệt, Lưu Bang được nhiều người nói đến.

Lưu Bang quê ở đất Bái tên chữ là chữ Quý. Khi xưa bà mẹ Lưu Bang thường nằm trên một bờ bưng lớn nghĩ ngơi... Bỗng một hôm, thấy thần nhân đến cùng với mình giao cấu.

Lúc tỉnh dậy, trong mình dã dượi, rồi thụ thai. sanh ra Lưu Bang. Lưu Bang mũi cao, miệng rộng, trán cao, mặt rồng, dưới vế bên tả có bảy mươi hai nốt ruồi, tính tình rộng rãi, trọng nghĩa, yêu người, khi lớn lên được làm chức Ðình Trưởng ở Tứ Thượng. Tuy nhiên, phải cái bệnh ham mê tửu sắc, nên ai cũng chê.

Bấy giờ có ông Lã Văn người Ðan Phủ, ngắm tướng mạo Lưu Bang rồi nói với mọi người:

- Bang tuy là kẻ ham mê tửu sắc, song lúc gặp thời phú quý sẽ về tay. Với đức tánh hiền lương ấy, tôi tưởng gầy nên nghiệp cả không khó.

Một hôm, Lã Văn về bàn với vợ, muốn đem con gái mình là Lã Nha gả cho Lưu Bang.

Bà vợ cau mày nói:

- Sao ông lẩn thẩn thể ? Trước kia quan huyện Bái đến cầu hôn, ông không chịu gả, bây giờ lại đem gả cho tên du đãng sao ?

Lã Văn cười lớn, nói:

- Ai bảo bà Lưu Bang là kẻ du đãng ? Bà có biết đâu người ấy là bậc anh hùng trong thiên hạ !

Hôm sau, Lã Văn mời Lưu Bang đến nhà, đặt tiệc khoản đãi.

Lúc đang ăn uống, Lã Văn nâng chén, nói với Lưu Bang:

- Tôi xem tướng ngài không phải là bậc phàm nhân, xin ngài phải tự trọng mới được. Nhà tôi có một gái, tuổi vừa cặp kê, tôi muốn cho theo hầu ngài để sửa tráp nâng khăn.

Lưu Bang khúm núm thưa:

- Tôi có ba việc chưa làm xong dám đâu nghĩ đến chuyện vợ con !

Lã Công nói:

- Ý tôi đã quyết, ngài chớ phụ lời. Vả lại kẻ trượng phu trên đời phải làm đến trăm nghìn việc, chớ cứ gì ba việc. Tôi chưa thấy ai vì bận việc mà từ chối không lấy vợ bao giờ.

Lưu Bang thấy Lã Công đem lòng quyến luyến không nỡ chối từ. Hai người bắt chén tương tri, rồi giã biệt.

Lã Công đưa tiễn Lưu Bang ra khỏi ngõ, bỗng có một chàng trai vồn vã chạy đến, nói với Lưu Bang:

- Ôi chao ! Ngài đi đâu mà đã ba hôm tôi tìm không gặp.

Lã Công thấy chàng trai ấy hình vóc cao lớn, tiếng nói vang như sấm, khí phách đường đường, nghĩ thầm:

- Hẳn là một tay hảo hớn, gặp thời có thể vá trời lấp biển được !

Liền mời cả hai vào hàng rượu gần đó đánh chén.

Lã Công lựalời hỏi thăm tên họ khách.

Khách đáp:

- Phàn tên Khoái, người huyện Bái, làm nghề bán thịt chó.

Nhân đi tìm Lưu Bang lại gặp ngài đây, thật vạn hạnh.

Lã Công nói:

- Tôi từng nghe danh tráng sĩ đã lâu, hôm nay mới gặp màt, muốn tỏ một lời, song còn e ngại.

Phàn Khoái kính cẩn hỏi:

- Việc gì xin ngài cứ thật tình dạy bảo.

Lã Công mỉm cười, nhìn Phàn Khoái hỏi:

- Tôi hỏi thế này tưởng cũng quá đường đột, nhưng xin tráng sĩ hỉ xả cho. Chẳng hay tráng sĩ đã có người nội trợ chưa ?

Phàn Khoái đáp:

- Thưa ngài, tôi nhà nghèo, cha mẹ mất sớm, việc ấy chưa thể nghĩ đến.

Lã Công nói:

- Tôi có hai gái, đứa lớn gả cho Lưu Bang rồi, còn đứa nhỏ là Tu, nếu tráng sĩ có lòng thương, tôi xin dâng nốt.

Phàn Khoái ngập ngừng chưa dám nhận, Lưu Bang mỉm cười bảo Phàn Khoái:

- Hôm nay là ngày kỳ ngộ, chỉ một bữa mà Lã đại nhân đem hai tiểu thư gả cho hai ta. Lã đại nhân đã có lòng thương, hiền đệ chớ nên từ chối.

Phàn Khoái vội vã đứng dậy tạ ơn Lã Công.

Rượu tan, ánh nắng chiều cùng bắt đầu nhạt dần, hai nghời bái biệt ra về.

Ngày hôm sau, quan huyện Bái sai Lưu Bang đưa phu đến núi Ly Sơn để phục vụ công tác xây thành.

Khi đi đường, bọn dân phu trốn thoát quá nửa. Tối hôm ấy nghỉ lại nơi trạm Chăm Phong Tây, Lưu Bang nói với mọi người:

- Các anh ra đi không biết ngày về, vợ đói con rét, người nào trốn được thì trốn, tội gì đem thân hy sinh cho công việc không đem lại lợi ích cho quốc gia.

Bọn dân phu nói:

- Cám ơn ngài có lòng thương chúng tôi, song chúng tôi nỡ nào trốn thoát để ngài mang tội sao đành !

Không, các anh cứ đi ! Tôi đây cũng phải tìm đường lánh nạn, chứ dại gì chịu chết !

Trong bọn dân phu có hơn mười người tráng sĩ, thấy Lưu Bang đầy lòng nhân đạo, đồng nói:

- Chúng tôi xin tình nguyện theo ngài !

Lưu Bang thuận tình. Ðêm ấy mọi người cùng Lưu Bang đánh chén thực say rồi theo lối tắt tìm đường đi trốn.

Ði được một quãng, bỗng thấy người dẫn lối quay trở lại nói:

- Ðàng trước có một con rắn dài ước mười trượng, nằm ngang giữa đường, không sao đi được. Phải tìm lối khác thoát thân.

Cả đoàn đều nhốn nháo. Riêng Lưu Bang vẫn điềm nhiên nói:

- Ðấng trượng phu không vì trở ngại mà lùi bước.Nói xong, cầm kiếm bước đến chém con rắn đứt làm hai đoạn, rồi vẫy tay nói với mọi người:

- Rắn đã chết, chúng ta tiến bước !

Mọi người le lưỡi, lắc đầu, bảo nhau:

- Bình nhật, Lưu Bang là kẻ nhút nhát, cớ sao hôm nay lại bạo dạn đến thế.

Cả đoàn kéo nhau vào ẩn nơi núi Mang Ðãng. Dân chúng trong vùng hay tin theo đến rất đông..

Cách mấy hôm, có người đến chỗ Lưu Bang chém con Bạch xà hôm trước, thấy có một bà già đang ôm xác con rắn khóc sướt mướt.

Người ấy lấy làm lạ, hỏi:

- Rắn chết thì trừ hại cho dân làng, cớ sao bà lại thương tiếc ?

Bà già nói:

- Con tôi là con Bạch Ðế, hóa ra rắn nằm dọc đường, rủi bị ông Xích Ðế chém chết, vì vậy mà tôi thương khóc.

Bà già nói dứt lời biến mất. Dân trong vùng hay chuyên lạ bảo nhau:

- Ðó là một quái tượng !

Ðất Bái xung thiên khí đế vương

Trảm xà khởi nghĩa cứu tai ương.

Mở dầu sự nghiệp gây nhà Hán

Công đức Lưu Bang thật khó lường.

Từ khi Lưu Bang trảm xà, mưu việc lớn, bốn phương thiên hạ tình nguyện theo phò ước hơn hai trăm người.

Bấy giờ hai người Lại Mục huyện Bái là Tiêu Hà và Tào Tham thấy chính sách nhà Tần tàn bạo, thuế má nặng nề, bàn nhau tôn quan huyện Bái lên làm minh chủ, mộ quân chống lại nhà Tần.

Lưu Bang hay tin ấy, kéo đoàn nghĩa dũng của quân mình đến xin gia nhập.

Quan huyện thấy thanh thế của Lưu Bang thì sợ hãi, gọi Tiêu Hà và Tào Tham đến trách.

- Các ngươi mượn tiến cử ta làm minh chủ, nay lại viện quân ngoài đến, có khác gì thêm cánh cho hùm, sau này không tránh khỏi nội biến.

Tiêu Hà và Tào Tham nhìn nhau mỉm cười.

Ðêm ấy, hai người lén ra ngoài thành, tìm đến nói với Lưu Bang:

- Quan huyện Bái là kẻ tầm thường không mưu nỗi việc lớn. Ngài nay thanh thế đã khá, nên thừa cơ hội này chiếm lấy thành trì huyện Bái, làm chỗ đồn trú quân mă, chiêu dụ hiền tài, khởi xướng việc nghĩa, mưu trừ kẻ tàn bạo, thì thiên hạ bốn phương mới có chỗ tôn phò.

Lưu Bang nói:

- Nếu hai ông sẵn sàng giúp tôi làm việc nghĩa, tôi đâu dám cãi lời. Song điều cần yếu hai ông phải giúp tôi làm nội ứng thì mới nên việc được.

Tiêu Hà và Tào Tham đồng đáp:

- Các bậc bô lão trong thành hiện nay đều mong mỏi có người tài cầm đầu khởi nghĩa, nếu ngài viết một bức thư vạch rõ lợi hại hiểu dụ, ắt trăm dân một lòng nghe theo, thành huyện Bái chiếm đoạt không khó gì.

Lưu Bang theo lời, viết một bức thư bắn vào thành, trong thư đại ý nói:

" Lâu nay thiên hạ khổ sở vì chánh sách tàn bạo nhà Tần, vì vậy, hào kiệt bốn phương đua nhau dấy nghĩa, chọn người tài làm minh chủ liên kết chư hầu dể dánh đổ bạo chúa, đem an cư, lạc nghiệp lại cho muôn dân là người trọng nghĩa vì dân nên cùng tôi ứng theo nghĩa cả ".

Các bô lão trong thành được thư, bàn nhau:

- Hiện nay Lưu Bang chiêu tập binh mã vì dân khởi nghĩa, chúng ta là những kẻ sống ngất ngưởng trong chế độ mục nát bạo tàn, lẽ nào lại không hưởng ứng.

Liền rủ nhau vào giết quan huyện Bái rồi mở cửa thành cho nghĩa binh Lưu Bang kéo vào.

Tiêu Hà, Tào Tham bàn với dân chúng lập Lưu Bang lên làm quan huyện Bái.

Lưu Bang từ chối, nói:

- Không thế được. Nay thiên hạ loạn lạc, các chư hầu đua tranh, cần phải tìm người tài tôn lên. Tôi đức bạc, tài hèn không đủ tín nhiệm làm chủ huyện Bái, xin các ông chọn người khác.

Mọi người đồng thanh nói:

- Lâu nay nghe tiếng ngài là bậc kỳ tài, đáng cho chúng tôi tôn làm minh chủ. Nếu ngài từ chối lòng dân ắt ly tán .

Lưu Bang thấy không thể từ chối được, phải nhận chức, tự xưng là Bái Công, dùng cờ đỏ làm "nghĩa kỳ". Dân chúng đất Bái theo đến hơn ba ngàn người.

Cùng trong thời gian ấy, Hạng Lương và Hạng Vũ sang đất Cối Kê.

Quan Thái Thú Cối Kê là Ân Thông biết Hạng Lương là người mưu trí , liền mời đến bàn chuyện.

Ân Thông nói:

- Nay vua Nhị Thế vô đạo, Trần Thiệp khởi binh thiên hạ nhao nhao hưởng ứng. Tôi cũng muốn thừa cơ khởi nghĩa nên mời ngài đến cùng tôi hợp tác, ý ngài nghĩ sao ?

Hạng Lương giả cách vâng lời, rồi trở về bàn với Hạng Vũ:

- Kẽ trượng phu cần tự lập, lẽ nào đem thân xu phụ người khác ! Vả lại Ân Thông không phải là người đủ tài đức đứng ra gánh lấy việc đại nghĩa. Tuy nhiên, nếu ta không cướp lấy cơ hội thì làm sao có chỗ dung thân để mưu việc lớn.

Hạng Vũ nói:

- Việc ấy chẳng khó gì ! Ngày mai chú vào giả cách đàm đạo với Ân Thông, cháu giắt kiếm vào lưng, theo chú đến đó, thừa cơ giết hắn đi chiếm lấy quận ấy để làm nơi nương tựa, chiêu tạp binh mã, tích thảo dồn lương.

Hạng Lương nói:

- Nếu cháu làm được việc ấy thì hay lắm.

Sáng hôm sau Hạng Lương và Hạng Vũ cùng vào nha môn. Ân Thông đem việc phản Tần bàn với Hạng Lương.

Hạng Vũ đứng một bên, hét lớn:

- Ngươi với ta hai lãnh vực khác nhau. Ta là dòng dõi khanh tướng nước Sở. Nước Tần diệt nước Sở nên ta đối với Tần có cái thù bất cộng đái thiên. Còn ngươi là một quan Thái Thú, ăn lộc vua lại âm mưu phản quốc, rõ là kẻ bất trung, không giết còn để làm gì.

Dứt lời vung kiếm chém Ân Thông rơi đầu.

Nha môn im lặng như tờ không ai dám hé môi.

Hạng Vũ cầm đầu Ân Thông giơ cao, nói:

- Hạng Công là người tài trí, đáng lãnh đạo dân chúng trong quận. Người nào không thuận hãy xem tấm gương này.

Hai viên môn lại là Quý Bá và Chung Ly Muội bước lên công đường nói lớn:

- Ðến đất người, giết chủ người, sao gọi là làm việc nghĩa ?

Hạng Vũ đáp:

- Hạng Công vì nước Sở trả thù Tần, vì thiên hạ cứu lầm than đó là chí lớn, nếu hai người bằng lòng qui thuận, nêu cờ khởi nghĩa chẳng phải là hành động đại nghĩa sao !

Hai người nghe nói đều phục xuống thềm, thưa:

- Chúng tôi xin nghe theo lời tướng quân.

Hạng Lương phong cho Quý Bá và Chung Ly Muội làm chức Ðô Úy.

Chẳng bao lâu, các nơi nghe tiếng kéo nhau đến theo hơn vạn người.

Hạng Lương sắp thành đội ngủ, thưởng phạt nghiêm minh ai cũng nức lòng phò tá.

Quý Bá và Chung Ly Muội bàn với Hạng Lương:

- Quân mạnh phải có tướng hùng mới nên việc. Nay thế quân của ta đã đông, nhưng tướng chưa đủ. Trong quận Cối Kê nơi Ðồ Sơn có hai viên tướng là Hoàn Sở và Vũ Anh, sức mạnh địch muôn người, đang chiêu mộ tinh binh ước hơn tám ngàn. Nếu dụ được hai tướng ấy thì hay lắm.

Hạng Lương nghe nói, lập tức sai Hạng Vũ và Quý Bá đến Ðồ Sơn chiêu dụ.

Hạng Vũ đến nơi, sai một tên tùy tùng vào nói.:

- Quan Ðại tướng nước Sở tôi là Hạng Vũ, tùy hành chỉ có vài người, mình không mặc giáp, tay không binh khí đến đây cốt để bàn với nhị vị việc Vương, Bá mà thôi.

Hoàn Sở và Vũ Anh nghe nói, cho mời Hạng Vũ vào.

Hạng Vũ nói:

- Nay vua Nhị Thế vô đạo, dân chúng lầm than, các anh hùng hào kiệt đều nổi lên dấy nghĩa, mong cứu dân khỏi vòng tai biến. Nhị vị tướng quân sẳn tài vũ dũng, có thể giúp ích cho đời, nếu cứ ẩn mãi trong chốn sơn lâm phỏng có ích gì. Hạng Công tích thảo dồn lương nơi quận Cối Kê, quyết lòng rửa hờn cho sáu nước, nếu hai vị tướng quân bằng lòng hợp tác sau này thành công phú quý cùng hưởng.

Hoàn Sở nói:

- Tần tuy vô đạo, song binh lực còn mạnh, nếu không có tài cái thế khó nổi thành công. Chúng tôi nhắm sức mình chưa đủ, không dám mưu việc lớn. Ngài đã dám đứng ra tính việc đại nghĩa, hẳn tài cán siêu quần. Bao giờ chúng tôi thấy được tài năng của ngài thì mới quy thuận, băng không chỉ vẽ hổ không thành, mang tiếng với đời mà thôi.

Hạng Vũ nói:

- Nhị vị tướng quân muốn thử tài tôi bằng cách nào ?

Hoàn Sở nói:

- Ở dưới sườn núi có miếu Vũ Vương. Trước miếu có cái đỉnh nặng mấy nghìn cân. Nếu ngài lay nổi ba lượt, thì quả là người có sức mạnh vô địch.

Hạng Vũ nói:

- Thế thì đưa tôi đến đó xem thử.

Hai tướng dẫn Hạng Vũ, Quý Bá và bọn tùy tướng xuống sườn núi, vào miếu Vũ Vương. Giữa sân có một cái đỉnh đồng cao bảy thước, chu vi năm thước, nặng ước năm ngàn cân. Hạng Vũ xem qua rồi bảo viên tiểu tướng đẩy thử xem. Viên tiểu tướng cố sức đẩy mạnh, mặt đỏ bừng, nhưng đỉnh đồng không hề lay chuyển.

Hạng Vũ xăn tay áo, đẩy mạnh một cái, đỉnh đồng ngã xuống rồi lại đỡ lên như cũ. Ba lần như vậy, vẫn không lấy gì làm nặng nhọc.

Hai tướng vỗ tay reo lớn:

- Ôi chao ! Quả là tay hảo hớn !

Hạng Vũ vừa cười vừa nói:

- Thế đã lấy gì làm lạ.

Dứt lời, cầm lấy chân đỉnh đưa cao lên trời, đi quanh miếu ba vòng, mà sắc mặt vẫn không thay đổi.

Hai tướng la lớn:

- Thật là bậc thiên thần, dẫu Mạnh Bôn tái sinh cũng chưa chắc đã địch nổi. Chúng tôi xin tùng phục ngài.

Hạng Vũ đem đỉnh đồng để xuống chỗ cũ, rồi theo hai tướng trở về trại.

Hai tướng đặt tiệc khoản đãi.

Ngày hôm sau thu xếp hành trang, thống suất binh mã, cùng theo Hạng Vũ hạ san.

Vừa đi khỏi Ðồ Sơn vài dặm, bỗng thấy một toán dân chúng hơ hải chạy đến.

Hạng Vũ ngạc nhiên, gò ngựa, hỏi:

- Các ngươi có việc chi sợ hãi thế ?.

Vài người dân binh đến đầu ngựa cúi chào Hạng Vũ và nói:

- Trong vực lớn cạnh núi Ðồ Sơn có con rồng đen, hóa thành ngựa, ngày nào cũng đến thôn Nam Phụ gầm, thét, cắn, đá , phá hoại mùa màng, chúng tôi không làm cách nào đuổi đi được. Ai đến gần đều bị ngựa đá chết. Chúng tôi thấy đại binh qua đây, đến nhờ tướng quân vì dân trừ hại. Ðược vậy dân vùng nầy mang ơn tướng quân không ít.
Về Đầu Trang Go down
  • Trả lời chủ đề này

Bài gửi by Admin Wed Apr 22, 2015 6:12 am

Hán Sở tranh hùng Empty Re: Hán Sở tranh hùng

Admin
Admin
Administrator
Administrator

Tổng số bài gửi : 5122
Points : 8388
Reputation : 1360
Join date : 21/11/2014
Đến từ : Tp.HCM

https://ccxiqi.forumvi.com
Hồi 4

Trừ thần mã, Hạng Vũ lấy vợ

Lập vua Sở, Phạm Tăng hiến mưu

Hạng Vũ nghe nói lập tức dẫn Hoàn Sở cùng bọn tùy tướng đến bên vực.

Thần mã thấy có người đến, nhảy xổ tới, cắn đá rất hăng. Hạng Vũ xăn áo, túm lấy bờm ngựa ghì xuống, con ngựa không cử động nổi. Hạng Vũ lấy dây cương tròng vào, rồi cưỡi mươi vòng quanh bờ vực, thần mã toát mồ hôi, đứng rũ chân không còn dám hung hăng như trước.

Dân chúng thấy vậy đều sụp lạy, hoan hô, và xin cho biết danh tính.

Hạng Vũ nói:

- Tôi là Hạng Vũ, cháu Hạng Yên, quan Ðại tướng nước Sở thời xưa, nhân đi mộ quân đánh Tần mới qua đây.

Trong đám dân chúng có một ông lão đến gần nói:

- Tôi nghe danh tướng quân đã lâu nay mới gặp mặt, xin mời tướng quân quá bộ đến thảo trang, cùng xơi với lão một chén trà.

Hạng Vũ nhận lời, kéo cả đoàn quân đến nơi.

Ông lão đặt tiệc thiết đãi rất ân cần.

Hạng Vũ hỏi:

- Thưa lão trượng, chẳng hay lão trượng phương danh là chi, cớ sao có thịnh tình này ?

Ông lão đáp.

- Tôi họ Ngu, người ta thường gọi tôi là Ngu Công, vì trọng tài tướng quân nên đem lòng quyến luyến. Chẳng hay tướng quân niên kỷ được bao nhiêu ?

Hạng Vũ thưa:

- Tôi năm nay 24 tuổi.

Ngu Công hỏi:

- Và, đã có người nội trợ để nâng khăn sửa túi chưa ?

Hạng Vũ đáp:

- Chí cả chưa thành, tôi chưa nghĩ đến chuyện đó.

Ngu Công ngập ngừng đáp:

- Lão hiếm hoi, chỉ có một gái tên Ngu Cơ, tư chất thông minh, tánh tình trang nhã. Khi tiện thê gần sinh cháu, mơ thấy năm con phượng đến múa trước nhà, lão chắc con gái lão sau này có số giàu sang, vì vậy lâu nay có ý chọn mặt gởi vàng. Nếu tướng quân không câu nệ nghèo hèn, lão xin đem tiện nữ dâng hầu tướng quân làm bầu bạn.

Hạng Vũ thấy lòng quyến luyến của Ngu Công, rất hân hoan, đứng dậy xin cảm ơn.

Ngu Công gọi Ngu Cơ ra chào. Thực là một đóa hoa tuyệt mỹ, giá đáng nghìn vàng.

Hạng Vũ cởi thanh kiếm đeo bên mình dâng cho Ngu Công làm lễ hứa hôn, rồi bái từ trở về Cối Kê, dẫn Hoàn Sở và Vũ Anh vào yết kiến Hạng Lương.

Hạng Lương thấy hai tướng hình dung vạm vỡ, khí phách kiêu hùng, lại dẫn theo hơn tám ngàn tinh binh đến đầu phục, lờng mừng rỡ vô cùng.

Hạng Vũ dắt con thần mã đến trình Hạng Lương.

Hạng Lương trông thấy con ngựa mình cao bảy thước, dài hơn một trượng, liền đặt tên là ô Truy, và nói:

- Từ ta khởi binh đến nay gặp nhiều may mắn, có lẽ trời khiến nhà Tần phải diệt vong.

Cách mấy hôm, Hạng Lương cho đón Ngu Cơ về Cối Kê kết hôn với Hạng Vũ.

Ngu Cơ lại đem theo một người em họ là Ngu Tử Kỳ để dùng.

Từ đó, thanh thế Hạng Lương mỗi ngày một mạnh, các binh sĩ đào vong bốn phương nghe tiếng tìm đến hơn mười vạn.

Hạng Lương thấy binh hùng, tướng mạnh, lương thực đầy đủ, liền định ngày xuất quân đánh Tần.

Ngày khởi binh đến, các bô lão nơi thành Cối Kê ra đứng cả hai bên vệ đường, nói:

- Tướng quân ra đi, chúng tôi còn biết lấy ai trông coi chúng tôi.

Hạng Lương xuống ngựa, kính cẩn nói:

- Khi trước tôi lấy thành Cối Kê là tạm mượn chỗ để lưun đồn nhân mã. Nay đại quân đóng lâu ngày sợ nhiễu loạn nhân dân chăng ? Tôi vì sanh linh trừ hôn quân vô đạo. Nếu nghiệp cả được thành, quyết chẳng bao quên ơn nơi đã giúp tôi khởi nghĩa.

Các bô lão đều cảm động, phục xuống đất, quyến luyến không nở rời.

Hạng Lương bùi ngùi ra lệnh ba quân tiến phát.

Ðại binh theo đường lớn, kéo thẳng qua sông Giang, đến sông Hoài.

Bỗng đạo tiền quân dừng lại, và có thám mã chạy đến báo:

- Phía trước có một toán quân ngăn đường.

Hạng Vũ vội vã giục ngựa tới trước, thấy trong toán quân đó có một tướng mặt mày vạm vỡ, khí thế uy nghi liền hỏi:

- Tướng kia là ai ? Cớ sao lại cản đường quân ta ?

Tướng ấy đáp:

- Ta là người đất Lục An, tên Anh Bố, lâu nay chiêu tập nghĩa binh để trừ gian, cứu thiên hạ. Các ngươi là toán quân vô danh ở đâu đến đây, ta quyết chẳng cho đi.

Hạng Vũ đáp:

- Tướng quân lầm rồi ! Ta đây là Hạng Vũ, con cháu Hạng Yên nước Sở, bởi vua Nhị Thế bạo tàn nên dấy binh khởi nghĩa, trả thù cho sáu nước chư hầu, sao lại gọi là vô danh ?

Hai người còn đang tranh phải trái, Hoàn Sở nghe tên Anh Bố, vội thúc ngựa ra trước quân, gọi lớn:

- Hiền huynh ơi ! Hãy xuống ngựa quy hàng. Tiểu đệ đã tùng phục theo nước Sở rồi, xin hiền huynh giữ lời hứa cũ.

Hạng Vũ ngạc nhiên hỏi Hoàn Sở:

- Có lẽ hai người quen thân với nhau sao ?

Hoàn Sở nói:

- Thưa phải. Anh tướng quân vũ dũng siêu quần, ít người sánh kịp. Trước kia phải đi làm phu dịch ở Li Sơn, bỏ trốn đến nhà tôi tá túc. Hai tôi có hẹn nhau, lúc nào gặp được anh quân sẽ cùng nhau đem thân giúp nước. Vừa rồi, tôi có nghe Anh Bố chiêu tụ nghĩa quân, nhưng chẳng rõ thực hư. Nay gặp mặt, thật may mắn .

Anh Bố xuống ngựa nói:

- Nếu ngài đã vì đại nghĩa dấy binh, tôi xin tình nguyện đem thân giúp sức.

Hạng Vũ mừng rỡ, dẫn Anh Bố đến yết kiến Hạng Lương.

Hạng Lương tiếp đón niềm nở và nói:

- Muôn quân dễ kiếm, một tướng khó tìm. Ðược tướng quân cộng tác, chẳng khác nào như hùm thêm vây.

Nói xong truyền thống hợp binh mã, tiếp tục lên đường.

Một hôm, Hạng Lương bàn với chư tướng:

- Quân mạnh, tướng hùng là điều kiện tất yếu trong quân, song trí dũng lúc nào cũng phải đi đôi với nhau mới có lợi. Quân ta sức mạnh đủ đánh Tần, chỉ thiếu một người mưu sĩ.

Quý Bố nói:

- Tôi nghe thôn Cư Sào, hạt Hoài Dương có một người họ Phạm tên Tăng, tuồi đã bảy mươi mà mưu trí còn thừa, dẫu Tôn, Ngô ngày xưa cũng khó bì kịp. Nếu Minh Công muốn dùng, tôi xin đi rước.

Hạng Lương mừng rỡ, sai Quý Bố đem lễ vật đến mời Phạm Tăng.

Quý Bố đến Cư Sào tììm nhà trọ nghỉ ngơi, dò hỏi tông tích Phạm Tăng.

Người chủ trọ nói:

- Ông ấy tuy ở gần thành thị, song không thích cảnh phố phường, lâu nay mai danh ẩn tích, chẳng chịu tiếp kiến ai bao giờ.

Quý Bố nghĩ thầm:

- Nếu không được giáp mặt Phạm Tăng làm sao bày tỏ cạn lời.

Nghĩ rồi hỏi chủ trọ:

- Ông có biết nhà Phạm Tăng hiện ở đâu chăng ?

Chủ trọ đáp:

- Cách đây ba dặm, nơi chân núi Kỳ Cổ có ngôi nhà lá đó là nhà Phạm Tăng.

Quý Bố nghĩ ra môt kế, sai đứa tùy tùng giả làm khách buôn đến nói với người nhà Phạm Tăng:

- Chúng tôi người xứ lạ, đến Cư Sào buôn bán, chẳng may gặp vận rủi, hàng hóa lỗ lã nghe đồn tiên sinh đây là bậc kỳ mưu, đến xin yết kiến để lãnh vài lời chỉ giáo.

Phạm Tăng nình nhật vốn thích việc bày mưu, lập kế, nghe người nhà nói có khách buôn từ phương xa lại, liền cho vào.

Quý Bố lập tức cùng với tên tùy tùng vào yết kiến.

Thấy Phạm Tăng tóc bạc da mồi, khăn nâu áo vải, mà khí tượng đường bệ, ra vẻ tiên phong, đạo cốt, vội vã cúi chào.

Phạm Tăng hỏi:

- Khách từ đâu đến ? Nghề nghiệp gì ?

Quý Bố lập tức dâng lễ vật, quỳ mọp xuống đất thưa:

- Tiện nhân không phải khách xa lạ, cũng chưa từng buôn bán ở Cư Sào, vì sợ không được yết kiến Tiên sinh nên mượn lời nói vậy. Nay vua Nhị Thế vô đạo, lòng dân oán vọng, hào kiệt nỗi lên chiếm đất giành dân, mưu đường tiến thủ. Hạng tướng quân tôi vốn dòng dõi Hạng Yên nước Sở, tài kiêm văn vũ, lòng sẵn hiếu trung, vừa phất cờ khởi nghĩa ở Cối Kê, muôn dân hưởng ứng. Trộm nghe Tiên sinh mưu trí, hơn người, Tôn, Ngô, không sánh kịp, nên sai tôi đem lễ vật đến dâng, nếu được Tiên sinh giúp sức thì việc đại nghĩa ắt thành, xin tiên sinh vì cảng lầm than của thiên hạ, ra cứu dân độ thế.

Pham Tăng bảo Quý Bố đứng dậy chỉ ghế mời ngồi và nói:

- Việc đồ vương định bá không thể quyết định trong chốc lát được. Túc hạ đã đến đây, xin tạm trú nơi tệ xá, ngày mai sẽ bàn.

Quý Bố cứ quỳ mãi dưới đất năn nỉ:

- Hạng tướng quân tôi mong được Tiên sinh chẳng khác nắng hạn trông mưa, lòng nóng như đốt, xin Tiên sinh vì cảnh điêu linh của muôn dân, đem tài cứu vớt, thiên hạ sẽ mang ơn Tiên sinh không nhỏ.

Phạm Tăng thấy Quý Bố năn nỉ quá, bất đắc dĩ phải nhận lời.

Tối hôm ấy Phạm Tăng bấm độn xem vận mệnh nước Sở, bỗng thở dài lẩm bẩm:

- Thôi ! Ta lầm rồi ! Sở không phải chân mệnh, khó lòng giúp nên công. Nhưng kẻ trượng phu đã nói một lời không thể thay đổi.

Hôm sau, Phạm Tăng thu dọn hành lý, cùng đi với Quý Bố đến giúp Hạng Lương.

Hạng Lương hay tin sửa sang áo mão, ra ngoài năm dặm đón rước vào đại trại, và nói:

- Lương tôi nghe tiếng Tiên sinh đã lâu, lòng khao khát, ngặt bận rộn việc quân, chưa đến bái yết được. Nay Tiên sinh không nỡ bỏ kẻ ngu hèn này đến đây dạy bảo, thật Lương tôi thỏa chí bình sinh.

Phạm Tăng đứng lên nói:

- Dòng dõi tướng quân mấy đời thờ nước Sở, nay vì dân khởi nghĩa, thiên hạ ai chẳng nức lòng. Tăng này dẫu tuổi già trí cạn, được tướng quân đoái tưởng, quyết tận tâm mưu tính nghiệp vương, để đền ơn tri ngộ.

Từ đó Hạng Lương cùng Phạm Tăng ngày đêm bàn tính việc quân cơ, rất tương đắc.

Một hôm Hạng Lương sai người đi dò thám tin tức Trần Thắng.

Quân thám thính về báo:

- Trần Thắng bị tướng Tần là Trương Hàm đánh bại, chạy về đất Nhữ Âm, bị tên Trang Giả giết chết. Chư hầu đều giải tán cả. Quân Trương Hàm hiện còn đóng ở Nam Dương.

Hạng Lương thất kinh, nói:

- Ta họp chư hầu cốt để giúp Trần Thắng đánh Tần, ngờ đâu Trần Thắng lại tử trận rồi. Quân ta không nên khinh thường kinh động.

Ðoạn, mời Phạm Tăng đến thương nghị.

Phạm Tăng nói:

- Trần Thắng là hạng tầm thường, chỉ tham lợi nhỏ mà không thấy được đại cuộc. Dẫu sống cũng chẳng làm được trò gì.

Hạng Lương hỏi:

- Thế nào là lợi nhỏ, thế nào là đại cuộc ?

Phạm Tăng nói:

- Phàm kẻ mưu đại cuộc trước hết phải chinh phục lòng dân. Trong lúc muôn dân ly tán, không phân tính được chân, thiện, ác, lẽ ra Trần Thắng phải tìm dòng dõi vua Sở trước kia lập lên để tỏ ra mình vì đại nghĩa, đàng này Trần Thắng tự lập mình, cho mọi người nghi ngờ hành động của mình, rõ là kẻ bất trí.

Hạng Lương nghe Phạm Tăng nói, ngẩn người một lúc, rồi hỏi:

- Việc thất bại của Trần Thắng có ảnh hưởng gì đến đường tiến thủ của chúng ta chăng ?

Phạm Tăng đáp:

- Dĩ nhiên đó là một bài học. Cứ như tướng quân khởi nghĩa chuyến này, dân chúng đâu đâu cũng hưởng ứng, vì tin chắc rằng tướng quân dòng dõi tôi thần nước Sở, tất sẳn lòng lập con cháu vua Sở lên làm vua. Mà như thế là chính nghĩa. Danh chánh ngôn thuận là một sức mạnh tuyệt đối, thắng bạo lực.

Hạng Lương cho là phải, liền dùng Phạm Tăng làm quân sư, sai người đi tìm con cháu vua Sở đem về lập lên ngôi.

Bọn thủ hạ đi tìm mãi không thấy tông tích con cháu vua Sở đâu cả.

Hạng Lương tức giận sai Chung Ly Muội dẫn một đám thủ hạ đi tìm.

Chung Ly Muội nói với bọn thủ hạ:

- Nước Sở từ khi bị nhà Tần diệt, con cháu ly tán, nếu còn thì nay cũng đổi họ tên, lẩn trốn nơi hoang dã, khó mà tìm được.

Ðoạn, cùng với bọn tùy tùng cất bước, lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm mà vẫn chưa tìm ra tông tích.

Một hôm, đi đến địa phận Nam Hoài, thấy một lũ chăn dê đang đuổi đánh một đứa trẽ đồng bọn.

Ðứa trẽ bị đánh ấy mặt mũi khôi ngô, trán cao, vai rộng, không phải như những đứa trẻ tầm thường, Chung Ly Muội gọi đứa trẻ ấy lại, hỏi:

- Tại sao chúng lại xúm nhau đánh mày như thế ?

Ðứa trẻ đáp:

- Tôi vốn không nhà cửa.., mẹ cha, ở làm con nuôi cho nhà Vương Xã trưởng, vì vậy chúng nó khi dễ. Vừa rồi tôi nói với chúng nó rằng: "Chúng bây dẫu có mẹ cha, nhà cửa, nhưng là con nhà tầm thường, ta đây tuy không nhà cửa, mẹ cha, nhưng là dòng dõi nhà vua. Chúng cho tôi nói láo, xúm nhau đuổi đánh.

Chung Ly Muội nghe nói, có ý mừng thầm, hỏi vội:

- Em nói em là con cháu nhà vua, vậy quê quán em ở đâu ?

Ðứa bé ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:

- Tôi từ nhỏ lưu lạc đó đây, nay cũng không nhớ đâu là quê quán.

Muội hỏi vặn mãi, đứa bé sợ hãi bỏ chạy, Muội nắm áo kéo lại nói:

- Ðừng sợ ! Ta muốn hỏi để biết rõ mà giúp đỡ em đó thôi.

Ðứa bé đứng trù trừ một lúc, rồi mới nói:

- Tôi năm nay mười ba tuổi, đến đây đã tám năm rồi. Mẹ tôi nói tôi là cháu đích tôn vua Hoài Vương nước Sở.

Ðứa bé nói chưa cạn lời, Chung Ly Muội đã truyền bọn tùy tùng bế đứa bé bỏ lên lưng ngựa thẳng đến nhà Vương Xã trưởng.

Vương Xã trưởng thấy quân lính đến nhà ồ ạt, sợ liền quỳ trước cửa rên rĩ:

- Tôi là kẻ tiều phu thảo dã, không rõ phép nước chẳng hay có điều gì lầm lổi xin các ngài dung thứ !

Chung Ly Muội đặt đứa bé lên giường cao ngồi rồi nói:

- Hay mời người mẹ đứa trẻ này ra đây cho ta nói chuyện.

Xã trưởng vâng lời chạy xuống bếp thay quần áo cho bà lão rồi dắt lên yết kiến Chung Ly Muội.

Chung Ly Muội hỏi lai lịch, bà lão ban đầu sợ sệt tìm lời chối quanh, nhưng sau thấy Chung Ly Muội một mực kính cẩn, liền lấy ra một chiếc áo lót mình đã cũ, đưa cho Chung Ly Muội xem.

Chung Ly Muội thấy trên áo có nét chữ, nhưng không rõ là chữ gì, bèn giơ lên trời xem, mới đọc được. Dòng chữ viết:

"Cháu đích tôn vua Hoài Vương nước Sở tên Mễ Tâm, Phu nhân Thái tử nước Sở là Vệ Thị".

Dưới dòng chữ có đóng dấu quốc bảo của nước Sở.

Chung Ly Muội xem xong mừng rỡ, gọi Xã trưởng nói:

- Ông hãy thay áo quần sạch sẽ cho đức Ðiện hạ, rồi cùng tôi đưa đức Ðiện hạ đến hội kiến Hạng tướng quân, ông sẽ được trọng thưởng.

Vương Xã trưỏng mừng rỡ, lấy quần áo cho Mễ Tâm thay rồi theo Chung Ly Muội đến Hoài Tây.

Hạng Lương hay tin, hội cả văn võ ra ngoài ba dặm tiếp đón, rồi tôn Mễ Tâm lên làm vua hiệu là Hoài Vương, Vệ Thị làm Vương Thái hậu.

Hoài Vương phong Hạng Lương làm Võ Tín Quân, Hạng Vũ làm Ðại Tư Mã phó tướng quân, Phạm Tăng làm quân sư, Quý Bố và Chung Ly Muội làm Ðô Kỵ, Anh Bố làm Thiên Tướng quân, Hoàn Sở, Vũ Anh làm Tán Ky.

Bá quan văn võ thảy đều được hưởng hàm ân.

Còn Vương Xả trưởng được thưởng năm mươi lạng vàng, cho về quê quán.

Ngày hôm sau, có tướng nước Sở tên Tống Nghĩa đang mộ quân ở Giang Hạ, hay tin Hạng Lương lập con cháu nước Sở, liền dẫn ba vạn quân đến quy phục.

Hoài Vương phong Tống Nghĩa làm Khanh Tử Quán Quân, cùng với Hạng Vũ thống lãnh binh mã đi đánh Tần.

Tống Nghĩa bàn với Hạng Vũ:

- Hoài Tây tuy là đất Sở, nhưng đóng đô không tiện. Nay Trần Anh hiện đang đồn quân ở Vu Thai, nơi đó địa thế hiểm trở, lúc tiến có thể đánh, lúc lui có thể giữ, ta nên đến đó chiêu dụ Trần Anh lấy Vu Thai làm căn bản để xử sự.

Hạng Vũ khen phải, liền vào tâu với Hoài Vương, rồi chỉnh đốn ba đội quân, chia làm ba đạo, kéo thẳng đến Vu Thai.

Ðạo tiên phong vừa kéo đến sông Hoài, thấy phía trước có bụi cát bay mịt mù, rồi một toán quân ồ ạt kéo đến.

Hạng Lương và Phạm Tăng cùng dừng ngựa lại xem, thấy tinh kỳ tề chỉnh, kiếm kích huy hoàng.

Phạm Tăng giật mình, lẩm bẩm:

- Chao ôi ! Toán quân uy nghi như thế, kẻ cầm đầu phải là bậc siêu quần.

Vừa nói dứt lời, chợt thấy một tướng cỡi ngựa vọt tới trước đầu quân, mũi phụng, mặt rồng hào quang sáng chói.

Phạm Tăng thở dài, than:

- Ta lầm rồi ! Chính người này mới là vị chơn chúa.
Về Đầu Trang Go down
  • Trả lời chủ đề này

Bài gửi by Admin Wed Apr 22, 2015 6:12 am

Hán Sở tranh hùng Empty Re: Hán Sở tranh hùng

Admin
Admin
Administrator
Administrator

Tổng số bài gửi : 5122
Points : 8388
Reputation : 1360
Join date : 21/11/2014
Đến từ : Tp.HCM

https://ccxiqi.forumvi.com
Hồi 5

Ðánh Chương Hàm, Võ Tín bại binh

Giết Tống Nghĩa, Hạng Vũ cứu Triệu

Người cầm đầu toán quân vừa xuất hiện chính là Lưu Bang.

Từ khi Lưu Bang chém rắn ở Mãng Ðăng, chiếm Phong Bái làm căn cứ, hợp quân hơn mười vạn, tiếng dậy bốn phương.

Nay nghe Hạng Lương khởi binh đánh Tần, liền cùng với Hạ Hầu Anh, Phàn Khoái, dẫn quân ra đón, định hiệp lực đánh Tần.

Hạng Lương và Phạm Tăng ra tiếp rất vui vẻ. Hai đội quân họp lại qua sông Hoài thẳng đến Vu Thai.

Trần Anh hay tin kéo quân ra tiếp đón.

Hạng Lương đem đại binh vào thành thống suất binh mã, rồi chia ra một đội, tự mình điều khiển, đến đóng nơi bờ sông Tứ Thủy để làm thế ỷ giác.

Từ đấy vua Hoài Vương đóng đô ở Vu Thai, quân thần đông đảo, quân sĩ kiêu hùng, các hào kiệt bốn phương lần lượt đến đầu phục mỗi lúc một đông hơn.

Một hôm, có người ở Hoài Âm tên Hàn Tín, chống gươm đến bờ sông Tứ Thủy, yết kiến Hạng Lương.

Hạng Lương thấy Hàn Tín gầy gò, không muốn dùng.

Phạm Tăng nói:

- Người này tuy dáng điệu gầy gò song chứa đựng một tiềm tàng về thao lược. Ngài chớ nên bỏ. Vả lại, đang lúc chúng ta chiêu hiền đãi sĩ, bõ rơi một người có thể làm phật ý hàng trăm hào kiệt bốn phương.

Hạng Lương nễ lời Phạm Tăng, cho Hàn Tín làm Chấp Kích Lang, lưu ở dưới trướng để sai khiến.

Hàn Tín là người Hoài Âm. nhà nghèo, thường câu cá ở sông Hoài, nhưng nghề câu không đũ nuôi sống, nhiều bửa phải nhịn đói suốt ngày.

Bên cạnh nhà có người phiếu mẩu (thợ giặt) thấy Hàn Tín đói, thương dẫn về nhà cho ăn.

Hàn Tín cảm nghĩa, nói:

- Ngày sau tôi sẽ đền ơn bà.

Người phiếu mẫu mắng:

- Sức vóc đàn ông mà nuôi thân không nổi. Ta thương tình dẫn về cho ăn, có mong vì sự đền ơn của kẻ bất tài.

Tuy không vui nhưng Hàn Tín cũng lặng thinh

Lại một hôm, Hàn Tín ra chợ bán cá, có một anh hàng thịt thấy Hàn Tín quá nghèo nàn dùng lời khinh bỉ:

- Này Tín, mày kiếm không đủ cơm nuôi bữa, cái thân trai như mày thực đê tiện, thế mà ngày nào cũng đeo gươm đi khắp phố phường để làm gì ? Mầy có dám đâm ta không ? Nếu không dám thì quăng gươm xuống luồn trôn ta đây, chớ làm ra mặt hào kiệt !

Hàn Tín nghe nói đỏ mặt. Sau một lúc ngẫm nghĩ Tín đành chịu khúm núm luồn qua trôn gã hàng thịt.

Cả chợ trông thấy cười ồ, chê Tín ìà đứa nhút nhát.

Duy có một người tên Hứa Phụ vốn giỏi nghề xem tướng, nói nhỏ với Tín:

- Anh có tướng Vương hầu, tuy khổ cực, song ngày sau gặp cơ hội có thể phú quý tột bực.

Hàn Tín cười nhạt, đáp:

- Tấm thân khốn nạn, tài hèn không đủ nuôi thân có đâu nói đến chuyện phú quý.

Kịp lúc Hạng Lương khởi binh đánh Tần, Hàn Tín tìm đến tiến thân, không ngờ Hạng Lương khinh bỉ cho làm chức Chấp Kích Lang lẫn lộn trong đám quân hầu.

Tuy buồn bực nhưng Hàn Tín không lấy thế làm bất mãn.

Quân Sở đóng nơi Vu Thai độ vài tuần, rồi bắt đầu tiến đánh các vùng lân cận. Ðánh đến đâu được đến đấy, uy danh lừng lẫy, tiếng đồn đến Hàm Dương, Triệu Cao lo sợ, cho gọi Chương Hàm đến nói:

- Hiện nay thiên hạ loạn lạc, giặc giã nổi lên như ong, Hạng Lương lập vua nước Sở, mua chuộc lòng dân, lại họp với quân Lưu Bang đóng ở Vu Thai, mười phần lợi hại. Tướng quân thống suất binh mã, thế mà không chịu đem quân đi đánh dẹp là ý làm sao ?

Chương Hàm nói:

- Mấy ngày nay được tin cáo cấp, tôi toan vào bệ kiến xin xuất quân, nhưng Thừa Tướng đòi hội nghị, thành thử chậm trễ. Vậy để tôi ra quân dẹp loạn, không trì hoãn.

Nói xong, kiếm điểm quân mã, cùng với Tư Mã Hân, Ðổng Ể và Lý Do kéo ba mươi vạn binh ròng ra cửa Hàm Cốc, thẳng đến phương Ðông đánh nước Ngụy trước, rồi sau mới đánh Sở.

Quân Ngụy thấy quân Tần quá mạnh, không dám giao phong, vội sai sứ đến hai nước Tề và Sở cầu cứu.

Vua nước Tề là Ðiền Chiêm, đích thân dẫn quân đi cứu Ngụy.

Trong lúc đó thì nước Lỗ vừa hạ được Trương Dương, thu được hàng tướng là Hạng Minh và ba vạn quân mã.

Hoài Vương liền sai Hạng Minh đem quân sang đất Ngụy đóng đồn để giữ thanh thế.

Chương Hàm một mặt sai Tư Mã Hân chống quân Tề, một mặt sai Ðổng Ể cự với quân Sở, còn mình dẫn đại binh đi hậu vệ, phòng cứu ứng.

Tư Mã Hân kéo quân đến, gặp đạo quân vua Tề là Ðiền Chiêm, liền chia quân làm hai đạo, phục hai bên đường, rồi dẫn một toán khinh binh đến khiêu chiến.

Ðiền Chiêm thấy quân của Tư Mã Hân quá ít, bèn đốc quân hỗn chiến.

Ðánh được vài mươi hiệp Tư Mã Hân giả thua bõ chạy, Ðiền Chiêm đuổi theo được vài dậm, bỗng nghe một tiếng pháo lệnh, tức thì quân phục hai bên đường úa ra đánh. Ðiền Chiêm biìết mình mắc mưu, vội thu quân về, chẳng ngờ quân Tần dùng cung tên loạn xạ, Ðiền Chiêm trúng tên tử trận. Tư Mã Hân chém lấy thủ cấp.

Trong lúc đó Ðổng Ể kéo quân đánh quân Sở gặp tướng Hạng Minh hên đất Ngụy.

Quân Ðổng Ể từ xa kéo đến, binh tướng mỏi mệt chưa kịp nghỉ ngơi thì bị Hạng Minh đến đánh. Ðổng Ể không cự nỗi, phải kéo quân bỏ chạy ngoài ba mươi dặm mới dám hạ trại.

Ðóng quân chưa yên thì Hạng Minh lại kéo đến truy kích, Ðổng Ể bị thua to, thu góp tàn quân chạy trở về.

Trong cơn nguy cấp may gặp toán hậu quân của Chương Hàm đến kịp.

Chương Hàm sai Lý Do dẫn một toán quân ra tiếp cứu.

Hạng Minh đuổi đánh Ðổng Ể suốt ngày đêm, người mỏi mệt nên giao chiến với Lý Do chưa đầy ba hiệp, bị Lý Do chém rơi đầu.

Chương Hàm đắc thắng, họp ba đạo quân làm một đến vây thành vua Ngụy.

Ngụy vương hay tin quân cứu bại trận, cùng Thái tử Ngụy Báo bỏ thành, thoát ra cửa Tây chạy trốn.

Chương Hàm đem quân vào thành phủ dụ nhân dân, rồi kéo quân đến đóng đồn nơi Ðông A.

Tàn quân của Hạng Minh chạy về cáo cấp với Hoài Vương.

Hoài Vương kinh hãi, triệu các tướng hội kiến.

Hạng Lương tâu:

- Ha thần xin lãnh một đạo quân đến lấy đầu Chương Hàm trước, rồi sẽ lấy đất Tần sau.

Hoài Vưong chuẩn tấu Hạng Lương dẫn Hạng Vũ, Phạm Tăng và một số tướng cận, thống suốt hai mươi vạn tinh binh, kéo đến Ðông A cách thành ba mươi dặm hạ trại.

Rạng ngày, Hạng Lương sai Hạng Vũ ra khiêu chiến. Hạng Vũ bày binh bố trận xong thúc ngựa đến bên thành gọi lớn:

- Chưong Hàm ! Hãy ra đây nạp mạng !

Chương Hàm nổi giận lên ngựa khai thành.

Hạng Vũ nói:

- Vua Tần nhà bây vô đạo, trăm họ than van. Kẻ nịnh thần Triệu Cao lung lạc, chẳng bao lâu nhà Tần bị diệt, điều ấy đã hiển nhiên, cớ sao chúng bây không rõ.

Chương Hàm nói:

- Ta đem binh thiên triều dẹp loạn, đi đến đâu trúc chẻ ngói tan. Chúng bay chỉ là bọn giặc cỏ, tài cán gì mà phách lối.

Hạng Vũ nổi giận cùng Chương Hàm giao chiến.

Ðánh được ba mươi hiệp, Chương Hàm đuối sức bỏ chạy, Hạng Vũ giục ngựa đuổi theo ước mươi dặm, bỗng gặp tên

kiện tướng của nhà Tần là Quý Do đem một toán quân đến chặn đưòng, giải thoát cho Chương Hàm.

Hạng Vũ hét lên một tiếng, Quý Do cả người bủn rủn, lùi ngựa hơn bốn mươi thước, Hạng Vũ giục ngựa đuổi theo. Tướng Tần Tư Mã Hân và Ðổng Ể trông thấy vội tiếp cứu, nhưng đánh chỉ mới ba hiệp đã phải bỏ chạy.

Hạng Vũ quyết đuổi theo bát sống, Hạng Lương sợ Hạng Vũ vào sâu nội địa của địch e nguy hiểm, liền sai Hoàn Sở và Anh Bố ra lệnh thu quân.

Chương Hàm thua to, lui về hơn năm mươi dặm mới dám hạ trại, và bàn với các tướng:

- Hạng Vũ sức mạnh như thần nếu dùng sức khó thắng nổi. Nay phải cố thủ, chờ cho quân Sở trễ biếng, thừa cơ đánh bất ngờ mới phá được.

Các tướng cho là phải. Từ đó, Chương Hàm cố thủ, không chịu ra quân.

Hạng Vũ dẫn quân trở về yết kiến Hạng Lương, và nói :

- Chương Hàm vừa thua một trận sợ uy quân ta cố thủ không dám ra quân. Ngàv mai quân ta chia làm ba đạo đánh úp ba mặt mới có thể tiêu diệt trại địch.

Hạng Lương gật đầu nói:

- Chương Hàm là một lão tướng, tuổi già sức yếu, không làm nên việc gì.

Liền mở tiệc khao thưởng ba quân, hẹn ngày mai xuất quân đột chiến.

Rạng ngày, Hạng Lương sai Hạng Vũ lãnh đạo trung quân, Anh Bố lãnh đạo tả quân kéo về hướng Tây, Lưu Bang lãnh đạo hữu quân kéo về hướng Ðông, ba đạo quân đánh trống reo hò, áp vào trại địch.

Chương Hàm thấy ba đạo quân kéo đến, liệu sức địch không nổi liền nhổ trại rút lui.

Ba đạo quân Sở đuổi theo truy kích, đánh quân Tần đứt làm ba đoan.

Chương Hàm chạy ra Ðịnh Ðào, Tư Mã Hân, Ðổng Ể chạy ra Bộc Dương, Quý Do chạy ra Ung Khâu.

Hạng Vũ đuổi theo Quý Do vừa đến Ung Khâu thì chém được Quý Do, quân Tần bị chết thây phơi chật đất.

Lưu Bang đuổi Tư Mã Hân chay đến Bộc Dương, Tiêu Hà bàn:

- Giặc cùng không nên đuổi gấp e chúng liều chết chiến thắng ta. Chi bằng cứ đóng quân nơi Bộc Dương tùy cơ tác chiến.

Lưu Bang nghe lời, đóng quân lại không đuổi nữa.

Còn Anh Bố đuổi Chương Hàm đến Ðịnh Ðào, Chương Hàm đóng cửa thành thủ thế. Anh Bố hạ trại xong, cởi ngựa đến dưới thành khiêu chiến suốt mấy ngày, Chương Hàm nhất định không xuất quân. Anh Bố chưa biết tính sao, còn đang bối rối, bỗng có tin Hạng Lương kéo binh đến tiếp ứng.

Anh Bố mừng rỡ, ra khỏi trại tiếp đón.

Hạng Lương nói:

- Chương Hàm thế cùng sức yếu, chạy đến thành nầy lánh nạn, ta phải tiêu diệt ngay, nếu để lâu ngày cứu binh đến thì khó trừ đặng.

Anh Bố nói:

- Chương Hàm tuy thất trận, song binh lực còn mạnh, đánh gấp khó thắng. Ý tôi muốn đóng quân lại đây chờ cơ hội thuận tiện sẽ lấy.

Hạng Lương gắt:

- Sao ngươi làm tướng mà nhát gan như vậy. Thế quân ta đang mạnh không diệt địch còn đợi cơ hội nào ?

Nói xong chia quân làm bốn đạo, đánh trống reo hò, dùng thang bắc lên mặt thành công hãm.

Chương Hàm ở trên thành trông thấy khiến quân dùng tên lửa bắn ra, bao nhiêu thang đều cháy hết.

Quân Sở chết rất nhiều, đành phải rút lui về trại.

Hạng Lương tức giận truyền đóng mấy trăm xung xa. Quyết phá thành cho được.

Xung xa đóng xong, vừa đem ra xung kích thì trên thành Chương Hàm lại truyền lấy dây xúc xích buộc vào những dùi sắt ném xuống. Bao nhiêu xe đều gãy hết.

Hạng Lương thất bại, vừa giận vừa buồn, ngày đêm thẫn thờ tính chưa ra kế.

Bấy giờ có viên Chấp Kích Lang là Hàn Tín thấy vậy vào thưa:

- Việc quân tấn thối không nên diên trì. Nay quân ta phá thành không được mà cứ đóng mãi dưới thành, đêm ngày trễ biếng, phỏng như quân địch dò biết được, nửa đêm kéo ra cướp trại thì nguy ! Ðánh thành là việc nhỏ, phòng bị là việc lớn, xin Tướng quân thận trọng.

Hạng Lương hét lớn.

- Ta từ lúc khởi binh nơi Cối Kê uy danh lừng lẫy. Chương Hàm là đứa thất phu, nghe đến tên ta đã vỡ mật, còn dám mở cửa thành đem binh ra cướp trại ư ! Ngươi là một tên quân hầu biết gì mà nói nhảm.

Tống Nghĩa thấy vậy cũng can:

- Hàn Tín tuy là tên quân hầu nhưng lời nói đầy thao lược, xin tướng quân chớ khi dễ. Kẻ thắng mà tự kiêu là bắt đầu nếm mùi thất bại đó.

Hạng Lương nghe Tống Nghĩa nói càng giận thêm.

Ðêm ấy, Chương Hàm dò biết quân Sở không phá thành được, sanh ra chán nản, trễ biếng, liền truyền lệnh ba quân ăn uống thật no, nai nịt chỉnh tề, im hơi lặng tiếng mở cửa thành kéo đến trại Sở.

Quân Sở bấy giờ đang ngủ say, bỗng nghe một tiếng pháo lệnh, bốn bề tiếng reo ó nổi lên van g trời dậy đất.

Hạng Lương say rượu, nằm mê mệt, không biết gì. Bọn tả hữu phải vực ra ngoài viên môn. Nhưng còn cháng voáng chưa lên ngựa kịp đã bị tướng Tần là Tôn Thắng xông đến chém một nhát rụng đầu.

Người sau có thơ nói đến Hạng Lương:

Vì nước vì dân quyết rữa thù

Phất cờ khởi nghĩa tíếng thiên thu

Sa cơ một phút, dành chung kiếp

Làm kẽ trung thần thiếu trí mưu

Hạng Lưong bị giết, quân Sở rối loạn, dày xéo lên nhau mà chạy.

Tống Nghĩa, Anh Bố hết sức chống giử nhưng không nổi, bất đắc dĩ phải bỏ trại thoát thân.

Chương Hàm toàn thắng, kéo quân thẳng đến Trần Lưu đóng đồn, thanh thế lừng lẩy.

Lưu Bang hay tin Hạng Lương thất trận vội kéo quân đến cứu ứng, nhưng không kịp, đành phải cùng Tống Nghĩa thu nhặt tàn quân kéo đến Ung Khâu rồi báo tin cho Hạng Vũ biết.

Hạng Vũ được tin Hạng Lương bõ mình, hét lên một tiếng, ngã xỉu xuống đất.

Bọn ta hữu vội vàng đở dậy. Hồi lâu, Hạng Vũ mới tĩnh, vừa khóc vừa nói:

- Chú ôi ! Cháu từ lúc tuổi thơ, cha mẹ mất sớm được chú nuôi dưỡng nên người. Nay sự nghiệp chưa thành, ơn chú chưa đền mà chú đã bị hại, thù này cháu quyết chẳng đội chung trời.

Các tướng đều xúm lại khuyên giải, Hạng Vũ mới nguôi dần.

Phạm Tăng nói:

- Làm tướng cầm quân ra trận chết sống lẽ thường. Nay Vu Tín Quân dẫu qua đời, nhưng sự nghiệp càng ngày càng vững chắc. Tưóng quân cần nói chí lớn ấy, lo việc phục hưng, đem lại vinh quang cho dòng giống. Ðược vậy người chết dưới suối vàng cũng hài lòng, và nhiệm vụ báo thù của tướng quân mói tròn được.

Hạng Vũ lau nước mắt đứng dậy tạ ơn, và nói:

- Tôi xin tuân lời chỉ dạy của tiên sinh.

Nói xong, khởi quân thẳng đến Ðịnh Ðào, hội với Tống Nghĩa và Lưu Bang hạ lệnh cho ba quân để khăn trắng, thu hài cốt Vũ Tín Quân tẩn liệm an táng nơi Ðịnh Ðào, rồi kéo quân đến Trấn Lưu để đánh Chương Hàm báo thù.

Nhưng, quân Sở chưa đến nơi đã được tin Chương Hàm dẫn quân sang sông đánh Triệu.

Vua Triệu là Hấp, cùng với hai tướng Trần Dư, Chương Nhĩ đem quan ra thành cự địch, nhưng đánh không lại phải lui về Cự Lộc, đóng cửa thành cố thủ và cho người sang cầu cứu nước Sở.

Tống Nghĩa bàn với Hạng Vũ:

- Chương Hàm thắng luôn mấy trận, thanh thế lừng lẫy, quân sĩ đang hăng. Còn ta, Vũ Tín Quân mới mất, vua Hoài Vương cô lập nơi Vu Thai, nếu tiến binh e bất tiện. Chi bằng trở về Thiên Ðô, qua Bành Thành để giữ thế thủ, rồi sẽ liệu sau.

Hạng Vũ đem ý ấy bàn với các tướng. Mọi người đều đồng ý.

Hạng Vũ ra lệnh thu quân trở về Vu Thai.

Vua Hoài Vương được tin Vũ Tín Quân tử trận, lòng thương xót vô cùng, cả ngày chỉ ngồi than thở.

Hạng Vũ tâu:

- Quân ta vừa bị bại, thế quân bị giảm yếu, nay phải củng cố thế thủ trước rồi sẽ tính đến thế công, xin bệ dời đô qua Bành Thành để làm thế ỷ giác, chớ nên chậm trể.

Hạng Vũ nói vừa dứt lời, có tin nước Triệu sai sứ đến cầu cứu.

Hoài Vương cho vào yết kiến, sứ Triệu tâu:

- Quân Tần ba mười vạn, vây thành Cự Lộc ngót một tháng trời, trong thành lương đã hết, quân sĩ mỏi mòn, chẳng bao lâu thành bị vở, xin đại vương thương tình cứu cấp.

Hoài Vương liền phong Tống Nghĩa làm đại tướng, Hạng Vũ làm phó tưóng, Phạm Tăng làm quân sư, thống lãnh hai mươi vạn quân đi cứu Triệu.

Quân Sở đến đóng nơi An Ðương cho người thám thính.

Qua hai ngày, Tống Nghĩa vẫn cho án binh bất động không chịu ra quân, lại sai con là Tống Tương sang làm tướng nưóc Tề.

Hạng Vũ lấy làm lạ, nói:

- Thành Cự Lộc sắp mất, quân ta có nhiệm vụ đến cứu, cớ sao tướng quân lại án binh bất động.

Tông Nghĩa nói:

- Quân Chương Hàm vây thành Cự Lộc đã lâu, thể nào cùng phải trễ biếng. Ta cứ đóng quân nơi đây chờ xem cái cơ suy nhươc của nó. Lúc nào quân địch mỏi mệt, ta chỉ đánh một lần là xong.

Hạng Vũ hậm hực bước ra, đợi hơn một tuần cũng không thấy Tống Nghĩa động binh, hoặc có kế hoạch nào khác, ngày đêm chỉ uống rượu, say sưa.

Hạng Vũ vào nói với Tống Nghĩa:

- Quân Tần vây Triệu mười phần nguy cấp. Tướng quân cứ đóng quân nơi đây, ngày đêm say sưa làm sao thực hiện được trọng trách của mình ?

Tống Nghĩa cười nhạt nói:

- Ví phỏng mặc áo dầy, cầm giáo nhọn, xông pha trận địa thì tôi không bằng ông, nhưng ngồi mà lập mưu, bày chước, chắc ông còn kém tôi.

Nói xong, Tống Nghĩa hạ lệnh cho ba quân:

- Ðâu đó phải im lìm, chớ nên hành động gì cả. Ai trái lệnh chém đầu.

Rồi đó, Tống Nghĩa lại rượu chè say sưa như cũ.

Bấy giừ vào tiết mùa đông, trời mưa dầm, rét mướt, quân sĩ đói khát, chết chóc rất nhiều.

Một hôm, Hạng Vũ lén vào trong quân để dò xem tình hình thấy quân sĩ ai cũng đem lòng oán vọng.

Hạng Vũ lập tức thẳng đến dinh Tống Nghĩa, nghiêm sắc mặt, nói:

- Tướng sĩ đều đem thân liều chết đánh Tần, bao nhiêu sinh mạng gởi vào tay tướng Quân, thế mà tướng quân cứ ngồi yên hưởng lạc, không kể đến ai ! Trên phụ lòng vua, dưới gây oán thù với tướng sĩ, người như vậy không đáng làm tôi xã tắc.

Tống Nghĩa nổi giận, chỉ vào mặt Hạng Vũ nói:

- Ta giữ quyền Tướng ấn, nhà người phải phục tùng,lại dám dùng lời nhục mạ ta sao ?

Hang Vũ hét lên một tiếng, rút gươm chém Tống Nghĩa một nhát bay đầu rồi nói lớn:

- Tống Nghĩa đưa con sang làm tướng nước Tề, lại không tuân mệnh vua cứu Triệu, rõ là đứa phản nghịch.

Chư tướng thấy Hạng Vũ giết Tống Nghĩa đều mừng rỡ, đồng thanh nói:

- Ngươi khởi xướng lập nước Sở là tướng quân. Nay tướng quân đã giết bỏ kẻ phản nghịch thật hợp với lòng công chúng

Tướng sĩ đều một lòng tôn Hạng Vũ lên làm Thương tướng.

Hạng Vũ nói:

- Ðiều ấy phải được mệnh vua. Bây giờ cần nhứt trừ cho tuyệt loài phản phúc.

Bèn sai tướng đuổi theo bắt Tống Tương để giết.

Tống Tương sang nước Tề, còn đương tìm cách tiến thân,ở nơi quán trọ, tướng Sở tìm được chém đầu đem về nạp. Hạng Vũ làm sớ kể tội cha con Tống Nghĩa dâng về triều.Hoài Vương sai Chung Ly Muội cầm cờ Tiết đến phong Hạng Vũ làm Thượng tướng.

Từ đó, uy phong Hạng Vũ đồn khắp chư hầu.

Mọi việc đã xong. Hạng Vũ sai Anh Bố làm tiên phong, kéo quân sang sông, còn mình điểm quân đi hậu tập.

Chương Hàm nghe tin liền sai Tư Mâ Hân và Ðổng Ể kéo quân đóng nơi phía Nam để ngăn địch.

Anh Bố đến nơi, hai tướng xông ra chận đánh.

Ðánh vừa mới được ba mươi hiệp, đạo hậu quân nước Sở kéu đến, hai tướng Tần thấy Hạng Vũ thất kinh bõ chạy. Hạng Vũ đốc binh đuổi theo cướp trại, đoạt lương thực rất nhiều, Tư Mã Hân và Ðổng Ể thoát chết chạy về miền Hà Bắc lánh nạn, đợi chờ tình thế êm dịu mới dám lần về báo tin cho Chương Hàm hay.
Về Đầu Trang Go down
  • Trả lời chủ đề này

Bài gửi by Admin Wed Apr 22, 2015 6:12 am

Hán Sở tranh hùng Empty Re: Hán Sở tranh hùng

Admin
Admin
Administrator
Administrator

Tổng số bài gửi : 5122
Points : 8388
Reputation : 1360
Join date : 21/11/2014
Đến từ : Tp.HCM

https://ccxiqi.forumvi.com
Hồi 6

Hạng Vũ chín lần thắng Chương Hàm

Triệu Cao lộng quyền khi Nhị Thế

Tháng được quân Tần, Hạng Vũ truyền họp đại binh để qua sông. Lại truyền quân sĩ chỉ mang lương thực theo đủ ăn trong ba ngày. Hễ quân qua sông rồi các chiến thuyền đều đánh đắm hết, thề quyết không trở về.

Tướng sĩ thấy Hạng Vũ quyết chí như thế, người ngIIờt đêu rạo rực.

Phạm Tăng và Chung Ly Muội mật bàn với Hạng Vũ:

- Tướng quân đuổi đánh Chương Hàm mà chỉ đem theo ba ngày lương, lại đắm thuyền, đạp chổ, nếu trong ba ngày mà chưa thắng được địch tất hư việc lớn, chi bằng sai một nha tướng tâm phúc mật báo với Triệu vận lương cho để phòng trác trở, như thế mới vẹn toàn.

Hạng Vũ thuận ý, sai ngưoi đến nước Triệu bìo tin.

Giữa lúc đó, hai bại tướng Tư Mã Hân và Ðổng Ể dẫn một số tàn quãn chạy về báo vói Chương Hàm:

- Anh Bố kiêu dũng, chúng tôi không thể địch nổi. Hiện giờ quân Hạng Vũ đã qua sông, xin tướng quân phòng bị.

Chương Hàm liền họp các tướng Vương Ly, Sa Gian, Tô Giác, Mạnh Phòng, Hán Chương, Lý Ngô, Chương Bình, Chu Hồng, Vương Quang đến cả dưới trướng bàn luận.

Chương Hàm nói:

- Hạng Vũ là tay dũng tướng, không ai địch nổi. Bọn các ngươi, mỗi ngưòi lãnh một đội quân, chia làm chín đạo, đóng trạii cách xa nhau, chờ ta ra đối địch với Hạng Vũ sẽ lần lượt tiếp ứng. Khi nào Hạng Vũ vào sâu trọng địa, cả chín đạo cùng kéo đến một lúc vây đánh, như thế may thắng nổi.

Chư tưóng vâng lời, kéo quân ra đi, ai lo phần nấy.

Chẳng bao lâu, quân Hạng Vũ kéo đến, Chương Hàm ra ngựa nghênh chiến.

Hạng Vũ thấy Chương Hàm, nghiến răng, trợn mắt hét:

- Cừu nhân ! Ngươi giết hại chú ta, thù ấy ta cùng ngươi quyết không đội chung trời !

Nói dứt lời vung gươm chém Chương Hàm. Chương Hàm đưa thương đỡ, nhưng Hạng Vũ chém quá mạnh làm cho ngựa Chương Hàm lui ba bước.

Ðánh được năm mươi hiệp, Chương Hàm mồ hôi ướt đẳm, nhắm không cự nổi nữa, liền quất ngựa bỏ chạy.

Hạng Vũ thlúc ngựa đuổi theo độ năm dặm, bỗng có đạo quân Vương Ly xông ra tiếp cứu.

Hạng Vũ hét lớn:

- Ngươi muốn chết thế cho Chương Hàm sao ?

Vương Ly cầm giáo đâm tới, Hạng Vũ đỡ ra quá mạnh làm cho Vương Ly té nhào xuống ngựa, bị quân Sở bắt trói dẫn về trại.

Chương Hàm thấy Vưong Ly bi bắt, liên phóng ngựa bỏ chạy, Hạng Vũ giục ngựa đuổi theo, nói lớn:

- Nghịch tặc ! Ngươi chạy đường nào khỏi tay ta ! Hãy dâng đầu tạ tội đã sát hại chú ta ngày trước.

Con ngựa Ô Truy của Hạng Vũ chạy vùn vụt như bay. Quân sĩ đều chạy theo sau, không ai theo kịp.

Chương Hàm thấy Hạng Vũ một mình đuổi theo, liền quày lại đấu chiến. Hạng Vũ quyết hạ cho được Chưong Hàm, ngờ đâu có bộ tướng của Chương Hàm là Sa Nhàn đem quân tiếp cứu.

Hạng Vũ tức giận, quay giáo đâm Sa Nhân.

Sa Nhân chới với bị Hạng Vũ chém một nhát té nhào xuống ngựa. Bọn nha tướng liều chết xông ra cứu thì đạo hậu quân của Hạng Vũ đã kéo đến, chém chết quân Tần vô số.

Chương Hàm nhân lúc hỗn loạn thoát khỏi vòng quân, bỏ chạy.

Hạng Vũ thấy mặt trời đã chen lặn. e có phục binh, nên truyền thu quân về trại.

Phạm Tăng bàn với Hạng Vũ:

- Tướng quân vào sâu nơi đất giặc, đêm nay trời nhiều mây, không trăng, quân địch có thể lợi dụng đến cướp trại tưóng quân cần đề phòng.

Hạng Vũ cho là phải, lien truyền lệnh bao nhiêu binh mã kéo sang chân núi bên kia hạ trại. Còn nơi đại trại thì chứa cỏ khô và đò dẫn hỏa.

Lại gọi Hoàn Sở, Vũ Anh, Ðinh Công, Ung Sĩ đến truyèn rằng:

- Bốn người đem quân ra ngoài mai phục. Hễ thấy trong trại bốc lửa lập tức đem quân đánh vào bốn mặt, chớ cho quân địch chạy thoát.

Bốn tướng tuân lệnh kéo quân ra đi.

Hạng Vũ lại gọi riêng Anh Bố đến dặn:

- Ngươi dẫn ba ngàn quân, lén đến cách trại Chương Hàm ba dậm, phục nơi đó đừng cho chúng tiếp viện.

Hạng Vũ sắp đặt xong thì trời đã vừa khuya.

Ðêm ấy Chương Hàm thu góp tàn quân, cùng với các tướng nghị luận.

Tô Giác nói:

- Nay quân sư vừa thắng trận, khí thế đang mạnh. Hễ mạnh tất phải kiêu căng, việc canh phòng trễ biếng.

Tôi xin lãnh một toán quân kỵ, từ mé Ðông đi lẻn vào sau trại. Tướng quân dẫn đại binh đi đường Tây, đánh vào trước trại. Hai bên xung kích một lượt tất trại Sở phải mất. Chương Hàm khen phải, làm theo kế Tô Giác.

Tô Giác kéo quân đến sau trại Sở, thấy tinh kỳ xiêu vẹo trống canh chễnh mảng, lòng mừng rở, lẩm bẩm:

- Phen này thì dẫu có mười tướng Hạng Vũ cũng phải mất đầu .

Liền đốc quân ùa vào. chẳng ngờ đó là một trại trống không người.

Tô Giác biết mình trúng kế vội vã lui binh.

Bỗng nghe một tiếng pháo nổ, bốn bề lửa cháy rần rần, hai đạo binh Sở kéo đến chận đường, cầm đầu là Vũ Anh và Hoàn Sở.

Hai tướng thét lớn:

- Tần tặc, hãy xuống ngựa chịu trói cho rồi, còn chờ gì nữa

Tô Giác sợ hãi, quất ngựa chạy theo đường mòn về phía hũu. Nhưng chạy chưa được bao xa, lại gặp binh Sở đón lại, tướng càm đầu là Hạng Vũ.

Tô Giác thấy Hạng Vũ tay chân run lẩy bẩy, bị Hạng Vũ chém một nhát bay đầu.

Giữa lúc đó, Chương Hàm kéo đại binh đến trước trại, nghe tiếng quân sĩ reo ó vang lừng trong trại lửa cháy mịt trời ngỡ là quân Tô Giác đang cướp trại, liền đốc quân xông vào.

Bỗng gặp lại gặp hai tướng Sở là Ðinh Công và Ung Sĩ cản:

- Tặc tướng, ngươi đã lầm kế mà chưa chịu bó tay sao ?

Chưong Hàm thất kinh, vung đao cùng với hai tướng Sở giao tranh.

Vừa đánh được mười hiệp, quân Hạng Vũ kéo đến, Chương Hàm thấy thế trận không còn giữ được, liền mở huyết lộ chạy trốn.

Các đạo quân Tần đóng lẻ tẻ, Hán Chương, Lý Ngô hay tin đến tiếp cứu, nhưng bị đạo binh phục của Anh Bố

đón lại dánh tơi bời.

Hạng Vũ đuổi theo Chương Hàm giết quân Tần không biết bao nhiêu mà kể, đoạt quân trang quân dụng rất nhiều. Cho đến khi vần đông ló dạng, Hạng Vũ mới thu quân về.

Chương Hàm về đến trại kiểm điểm quân mã, đợi đến tối sẽ thi hành diệu kế.

Ciữa ìúc đó, Hạng Vũ toàn thắng, mở tiệc khao quân, người người hón hở, rượu thịt no nê.

Phạm Tăng nói với Hạng Vũ:

- Chưong Hàm tuy thua , nhưng vốn là một mưu tướng, đêm nay thế nào cũng phục quân để phòng ta cướp trại.

Hạng Vũ nói:

- Quân sư luận rất hay. Vậy ta phải làm gì để sớm trừ chúng nó ?

Phạm Tăng nói:

- Mượn kế nó làm kế mình. Ðêm nay tướng quân kéo mộ đạo binh đến đóng trước trại, giả làm thanh thế, khua chiêng, đánh trống, lại sai các đạo binh khác phục sẵn, chận những toán binh phục của địch mà đánh, như thế Chương Hàm sẽ không còn đường thoát thân.

Hạng Vũ theo lời, sai Anh Bố lĩnh một vạn quân đi về hướng Nam, Hoàn Sở lãnh một vạn quân đi về hướng Bắc. còn mình tự lĩnh ba vạn quân đi tiền đạo. Tất cả chuẩn bị sẵn sàng, đợi đến đầu canh hai khởi sự.

Ðêm ấy không trăng, ánh sao lờ mờ chiếu xuống khoảng không gian như màu sữa đục. Rừng núi phủ màu đen, các ven đường rải rác những lùm cây rậm, lấp loáng bóng người, đó là hai đạo binh phục của hai tướng Sở kéo đến.

Cảnh vật đang chìm đắm trong giấc ngủ u buồn, bổng vang lên những tiếng quân reo, tiếng chiêng trống rợp trời.

Chương Hàm mừng rỡ, ngỡ là quân Sở dến cướp trại, liền truyền hai toán quân phục của mình xông đến bao vây. Nhưng liền lúc đó, hai cánh quân Tần bị chận lại, do hai cánh quân Sở đã phục sẵn.

Chương Hàm được tin, biết cơ mưu đã hỏng, truyền quân nhổ trại lui binh.

Hạng Vũ đuổi theo hơn hai mươi dặm thì đến nước Triệu.

Trong thành nghe tiếng quân reo biết quân Sở đến cứu, truyền khai thành để tiếp ứng,hai mặt đánh dồn lại, quân Tần không biết đường nào chạy, bị giết hơn nữa.

Chương Hàm không còn thiết gì đến quân sĩ, dẫn mấy tên kỵ mã chạy trốn về Khúc Dương.

Giải vây được nườc Triệu, vua Triệu dẫn bọn Chương Nhĩ. Trần Dư ra ngoài thành đón tiếp quân Sở vào thành đại yến.

Hạng Vũ nói:

- Bây giờ chưa phải là lúc vào thành an nghỉ. Chương Hàm vừa bại trận. ta phải thừa thắng đuổi đến đất Tần, tiêu diệt lực lượng. Nếu vào thành e chậm trễ thì giờ, giặc được nghỉ ngơi, nuôi thêm thế lực, ta phải tốn thêm nhiều công phu.

Nói xong, truyền Quý Bố, Chung Ly Muội thống lãnh hai mươi vạn quân hạ trai ngoài thành Triệu, còn mình thống suất đại binh đuổi theo Chương Hàm.

Quân Hạng Vũ đi đến đâu cũng được quần chúng tiếp đón nồng hậu. Các chư hầu đều ra bái vọng hai bên đường tỏ sự biết ơn của mình đối với nước Sở.

Phạm Tăng nói vói Hạng Vũ:

- Nay Chưong Hàm trốn đã xa rồi, lòng người đều ngưỡng vọng quân ta, các chư hầu phục tùng nước Sở, đó là lúc tướng quân lấy nước làm nhà, hà tất phải dấn mình trong đám mưa tên rừng giáo làm chi ? Sức mạnh một người không bằng sức mạnh của toàn thể của chính nghĩa. Phương chi, mới có ba ngày, tướng quân thắng luôn chín trận, phá ba mươi vạn quân Tần, từ xưa đến nay chưa có tướng nào lập được kỳ công như vậy. Tôi thiết tưởng nay hãy tạm dồn binh ở Chương Nam để dưỡng sức quân đã. Hiện nav Triệu Cao đang chuyên quyền, áp chế vua Nhị Thế. Triệu Cao là đứa tiểu nhân, ganh tị, Chương Hàm chẳng bao lâu cũng bị hại. Chờ cho triều đình vua Nhị Thế rối loạn, ta sẽ tìm kế tiến thủ.

Hạng Vũ khen phải, nói:

- Xin tuân lời quân sư chỉ giáo.

Ðoạn. truyền đóng quân lại ở Chương Nam.

Trong lúc đó, Chưong Hàm thu nhặt tàn quân, còn lại độ mươi vạn, kéo qua Chương Hà, đóng đồn tại cửa Hàm Cốc, và làm sớ gởi về triều xin quân tiếp viện.

Triều thần hay tin Chương Hàm thua luôn chín trận, tổn thất ba mươi vạn quân, đều khiếp sợ, ăn ngủ không yên.

Triệu Cao quyền chính gồm một tay, các việc quan hệ đều giấu hết, không để lộ cho vua Nhị Thế biết.

Các quan ai trái ý, lập tức tìm cách ám hại, vì vậy ai cũng sợ, không dám nhìn mặt.

Một hôm, Triệu Cao đem dâng cho vua Nhị Thế một con hươu, mà nói là con ngựa.

Vua Nhị Thế cười lớn, nói:

- Thừa Tướng lầm rồi ! Ðó là con hươu chứ đâu phải con ngựa. Nhị Thế ngoãnh qua hỏi triều thần:

- Có người lặng thinh không dám nói, có người nói thẳng là con hươu, có người a dua theo Triệu Cao nói là con ngựa.

Người nào nói thẳng đều bị Triệu Cao tìm cách hãm hại. Quần thần lại càng sợ Tnệu Cao hơn.

Thừa Tướng Lý Tư thấy vậy lòng băn khoăn không yên. Triệu Cao biết Lý Tư không ưa mình, một hôm tìm cách nói: - Nay cõi Quan Ðông giặc giã nổi lên như ong vỡ tổ, Chương Hàm thua mấy trận, nước nhà đương cơn nguy ngập, tôi là quan hoạn không được phép tâu bày, đó là nhiệm vụ chính của quân hầu, sao quân hầu vẫn lặng yên không tiến gián ?

Lý Tư buồn bã nói:

- Bệ hạ ở mãi trong thâm cung, tôi làm sao tiến gián đươc.

Triệu Cao hăm hở nói:

- Quân hầu cứ sắp sẳn lời tấu đi, lúc nào có thể tiến gián được tôi sẽ tin cho quân hầu biết để vào yết kiến.

Lý Tư ngỡ Triệu Cao có thiện cảm với mình, ngờ đâu đó là ác ý của triệu Cao.

Triệu Cao nhân lúc vua Nhị Thế đang say sưa với các phi tần trong thâm cung, ìửa dục phừng phừng trong men rượu, liền sai người bảo Lý Tư:

- Lúc này có thể tâu bày dược, xin Thừa Tướng vào yết kiến.

Lý Tư tin thật, xin vào tâu.

Lần thứ nhất vua Nhị Thế từ chối. Lý Tư lại xin lần thứ hai, rồi lần thứ ba.

Vua Nhị Thế thấy Lý Tư lải nhải mãi, nổi giãn mắng:

- Trẫm đang lúc vui vầy với phi tần, sao Lý Tư lại dám vô lễ như vậy ?

Triệu Cao liền lợi dụng cơ hội kiếm lời dèm tấu:

- Lý Tư cậy mình có công lập Bệ hạ trước kia ước vọng được bê hạ cắt đất phong vương, nhưng ước vọng ấy không thành đem lòng oán trách. Vừa rồi sai con là Lý Do1àm quan Thái Thú ở Tam Xuyên mục đích để tư thông với Sở xin bệ hạ phải xét mới được.

Từ đó vua Nhị Thế có ý ghét Lý Tư, và Lý Tư cũng biết Triệu Cao muốn hại mình, liền làm biểu dâng lên kễ tội Triệu Cao, xin vua bõ cung A Phòng lo chỉnh đốn việc nước.

Vua Nhị Thế xem tờ biểu, mắng Lý Tư:

- Trẫm biết Triệu Cao là người hiền, thờ trẫm rất trung hậu. Nếu không có Triệu Cao thì trẫm không còn ai sai khiến. Còn ngươi bảo trẫm bỏ cung A Phòng thật là điều phi quân. Cung A phòng của tiên đế lập ra, ngươi đã không ngăn được trộm giặc để bốn phương nổi loạn, thế mà còn bảo trẫm làm trái ý tiên đế để mang tội bất hiếu.

Nói xong, giao Lý Tư xuống Ðình ủy nghị tội, ghép án tư thông với nước Sở chiếu ngũ hình, bắt phải tội chém ngang lưng và tru di tam tộc.

Vũ sĩ trói cha con Lý Tư, dẫn ra chợ Hàm Dương, Lý Tư nhìn con nói:

- Nay cha con mình dẫu muốn dắt chó ra đất Thương Thái săn thỏ để làm vui đâu còn được nữa.

Hai cha con nhìn nhau ứa lệ, rồi cùng bị xử trảm.

Người sau có thơ chê Lý Tư:

Họ Lý không thông vận thế thời

Ngày tàn còn nghĩ cuộc vui chơi

Công thành chẳng liệu lui mình trước

Phú quí vinh hoa, miệng bả đời !

Từ lúc hại được Lý Tư, quyền thế Triệu Cao càng lớn, quần thần không ai dám nhìn mặt.

Chương Hàm đóng quân ở Hàm Cốc lương thực hết sạch, tướng sĩ mỏi mòn, nhiều lần sai người về triều cáo cấp, nhưng Triệu Cao giấu nhẹm, không cho vua Nhị Thế biết.

Một hôm, vua Nhị Thế đi săn về, vào cung nằm tựa gối lim dim đôi mắt, bỗng vẳng nghe bên tai. hai cung nhân hầu hạ thì thầm:

- Công việc ngoài biên ải hiện nay ra sao ?

Nguy lắm ! Chương Hàm thua luôn chín trận, quân sĩ hao mất ba mươi vạn, bất nhật quân Sở kéo đến đây, chúng ta khó toàn mạng.

Vua Nhị Thế thất kinh, vùng dậy, nắm lấy cung nhân, hỏi:

- Các ngươi vừa nói chuyện gì ?

Cung nhân quỳ mọp xuống đất van xin:

- Tâu bệ hạ, chúng tôi ngở Bệ hạ yên giấc nên nói chuyện riêng, xin Bệ hạ tha tội.

Vua Nhị Thế gắt:

- Cứ nói đi. Có chuyện gì phải giấu ta ?

Cung nhân tâu:

- Hiện nay thiên hạ mười phần rối loạn, Chương Hàm thất trận quân sĩ chết rất nhiều. Nếu tình thế này kéo dài mãi nhà Tần phải diệt vong.

Vua hỏi:

- Do đâu các ngươi biết chuyện đó ?

Cung nhân tâu:

- Cả nước không ai không rõ, duy Bệ hạ bị Triệu Cao che mắt mãi yên vui, không biết mà thôi.

Vua Nhị Thế tức giận đòi Triệu Cao đến mắng:

- Ngươi làm Thừa Tưóng, việc lớn nhỏ đều ở trong tay. Nay thiên hạ rối loạn, nước nhà nguy cấp, quân ta tổn thất hơn ba mươi vạn, thế mà không tâu cho trẫm biết, lại còn bịa lời nói dối, tội ngươi đáng chém !

Triệu Cao run cầm cập, bỏ mũ, dập đầu xuống tâu:

- Tâu Bệ hạ, thần là một Tể Tướng, chỉ quản cố được công việc bên trong, cung phụng bệ hạ họa hưỡng thái bình mà thôi. Còn như việc đánh dẹp ngoài biên ải là nhiệm vụ của quan Ðại tướng. Nay việc đã xảy ra như vậy xin bệ hạ sai người đến vấn tôi Chương hàm, ròi sai một viên đại tướng khác ra thay, tất phải cứu nguy được. Và mọi việc ngoài biên chẳng qua chỉ là lời đồn đại, nếu có gì sao không thấy Chương Hàm cáo cấp ? Bệ hạ chớ quá tin bọn cung hoạn mà thống trách vi thần như vậy.

Nhị Thế nghe Triệu Cao nói bùi tai, liền bỏ qua, không nghĩ đến chuyện giặc giã nữa.

Triêu Cao về tư dinh,mồ hôi chưa ráu cho là Chương Hàm vì lâu nay mình giấu nhẹm mấy tờ cáo cấp nên sai người đút lót bọn cung nhân để gièm ph mình. Nghĩ như thế, Triêu Cao căm tức Chương Hàm vô cùng.

Chẳng bao lâu được tin Chương Hàm sai quan Trưởng Sử là Tư Mã Hân về triều cấp tấu.

Triệu Cơ ra lệnh Tư Mã Hân phải đợi ngoài triều môn.

Tư Mã Hân đợi đến ba ngày vẫn chưa được vào tâu, lòng nóng như dốt, liền lấy vàng đút lót cho nhà Triệu Cao, để dò xem tin tức.

Tên lính hầu của Triệu Cao nói riêng với Tư Mã Hân :

- Thừa Tướng đang căm tức Chương tướng quân muốn bới móc tội bại binh để khép án. Tướng quân về triều hôm nay chẳng khác chui đầu vào lưới.

Tư Mã Hân nghe nói vội vàng trở ra nhà trọ, gói ghém hành trang nội trong đêm ấy, lén trốn ra Hàm Cốc.

Sờ dĩ Triệu Cao để Tư Mã Hân chầu chực ba ngày là muốn lập mưu bắt cả gia quyến xử tội, không ngờ Tư Mã Hân đã trốn trước.

Triệu Cao tức giận vào tâu với Nhị Thế:

- Bọn Chương Hàm cầm binh ngoài cõi, thua luôn mấy trận, hao binh tổn tướng, thật nhục nhã, nay lại sai người lén về triều dò thám chắc là âm mưu phản loạn, xin bệ hạ sai người ra thế, và bắt Chương Hàm về triều trị tội , thì việc nước mói yên được.

Nhị Thế chuẩn tấu, Triệu Cao sai cháu là Triệu Thường đến Hàm Cốc đòi Chưong Hàm về .

Trong lúc đó, Tư Mã Hân chạy suốt ngày đêm, tất tưởng đến Hàm Cốc, vào yết kiến chương Hàm, nói:

- Hiện nay Triệu Cao chuyên quyền, che mắt trong ngoài, tìm cách hảm hại tướng quân, kiếm lời dèm pha, không chịu phát quân cứu viện. Nếu tôi không nhanh chân thoát thân thì đã bị Triệu Cao hại mạng rồi.

Chương Hàm nghe nói rụng rời, ngước mặt lên trời than:

- Trong thì gian thần tác loạn, ngoài thì giặc giã tranh hùng, nhà Tần ắt chẳng còn bao lâu nữa.

Liền họp các tướng đàm luận.

Ðồng Ể nói:

- Triệu Cao là đứa gian ác chỉ dùng một lời nói mà Lý Tư bị tru di tam tộc. Bọn chúng ta khó thoát khỏi tay hắn.

Ðang lúc bàn bạc, thì Triệu Thường cầm chiếu đến.

Các tướng ra ngoài dinh nghênh tiếp, và mở chiếu ra đọc.

Chiếu rằng:

Ngày thường ăn lộc nước, lúc loạn phải tận trung, nay bọn các ngươi cầm binh dẹp loạn, húy tử tham sanh, để cho hao binh tổn tướng. làm nhục quốc thể, tội đáng chết. Lại còn sai ngườl về triều, chưa thĩnh mệnh đã bỏ trốn đi, rõ là tinh thần phản nghịch. Nay sai Triệu Thường phụng sứ bắt các ngươi lập tức hồi triều, nếu cải lệnh khó dung.

Nay chiếu.

Chương Hàm nghe đọc chiếu xong, chư tướng đều đứng cả dậy, nắm lấy sứ giả nói lớn:

- Bọn chúng ta mặc giáp, cầm thương, xông pha tên đạn, coi chết như lông hồng, cay đắng khó nhọc biết chừng

nào. Ðã mấy lần cáo cấp về triều bị Triệu Cao giấu nhẹm, không phát quân. Lỗi sờ sờ ra đó, thế mà còn buộc tội chúng ta sao ? Theo sứ về triều chịu chết thà chém sứ phản đối tên phản nghịch.

Dứt lời, các tướng rút gươm toan chém Triệu Thưòng.
Về Đầu Trang Go down
  • Trả lời chủ đề này

Bài gửi by Admin Wed Apr 22, 2015 6:16 am

Hán Sở tranh hùng Empty Re: Hán Sở tranh hùng

Admin
Admin
Administrator
Administrator

Tổng số bài gửi : 5122
Points : 8388
Reputation : 1360
Join date : 21/11/2014
Đến từ : Tp.HCM

https://ccxiqi.forumvi.com
Hồi 7

Giận bạo chúa, Chương Hàm đầu Sở

Chuộng Trương Lương, Lich Tinh lập mưu

Chương Hàm thấy các tướg giận giữ muốn chém sứ, liền cản lại nói:

- Không nên vì đứa phản thần mà chém sứ e mang tội kháng mệnh triều đình. Chi bằng giữ Triệu Thường lại, phiên tấu về triều xem vua xử như thế nào đã.

Các tướng theo lời, bắt Triệu Thường giam lại.

Trong lúc Chương Hàm đang thảo sớ, bọn Trần Hy kéo đến nói:

- Tôi nghe tin Triệu Cao đã in sâu vào đầu óc vua Nhị Thế dẫu chúng ta có minh oan đến đâu cũng chẳng ai xét đến. Cái họa diệt tộc không tránh khỏi. Ấy vậy, cứ chém sứ đi cho hả lòng, rồi sẽ liệu sau.

Chương Hàm còn lưỡng lự. Cách hai ngày sau có thư Trần Dư từ nước Triệu gởi đến.

Trong thư nói:

Xưa Ngô Khởi làm tướng nhà Tần, đánh thành, cướp nước, biết bao khó nhọc, thế mà cuối cùng không khỏi tội chết. Còn như Mông Ðiềm đuổi rợ Hung, mở đất Trung Du dài hơn nghìn dậm. Công lớn dường ấy mà cũng không tránh khỏi thác oan !

Nay tướng quân ba đời làm tướng, công lao không nhỏ. Thế mà mới thua mấy trận, thiệt mất vài muôn vạn quân, trên dưới đã nhao nhao dèm síểm. Rõ là nhà Tần có tánh đố kỵ tơi trung.

Trời đã muốn làm mất nhà Tần, ai còn có thể cứu vãn được. Người ta tận trung vua thảo tôi hiền còn đem thân hy sinh cho kẻ tàn bạo, vong ân mà uổng mạng.

Tướng quân, trong không thể trực gián, ngoài làm một bại tướng, cô lập, sống sao nổi ? Vả lại,thiên hạ đang lầm than, anh hùng đua nhau phất cờ khởi nghĩa, đưa xã hội tiến tới cuộc sống huy hoàng, tướng quân làm cái việc giữ lấy bánh xe lịch sử không cho quay, như thế tưởng không phải là thượng sách. Theo tôi, tướng quân nên liên kết với chư hầu, trừ bạo ngược, trước bảo vệ thân mình, sau để người đời khỏi chê trách.

Kính Thư

Chương Hàm xem xong, bàn với chư tướng:

- Trần Dư nói cũng có lý, song chẳng biết nên đi phưong nào cho phải ?

Trần Hy nói:

- Các nước mới lập, sức còn yếu chưa có thể nương thân được. Duy có Sở, Hạng Vũ oai danh lừng lẩy, thế lực kiêu hùng, các chư hầu đều phải tùng phục. Tôi chắc sau này nhà Tần sẽ mất về tay nước Sở. Nếu chúng ta theo về Sở ngôi công khanh chẳng mất.

Chương Hàm nói:

- Trước kia ta giết Hạng Lương, Hạng Vũ đem lòng thù oán, khi nào lại dùng ta.

Trần Hy nói:

- Tôi xin vì tướng quân sang Sở làm thuyết khách, dò ý Hạng Vũ rồi sẽ liệu.

Chương Hàm nói:

- Ðược, xin ngài cứ thử xem, tôi chờ đợi kết quả.

Trần Hy cỡi ngựa sang Sở, sai người vào bẩm:

- Có sứ Tần xin vào yết kiến.

Hạng Vũ cho vào, hỏi sứ giả:.

- Các tướng Tần khốn đốn đã lâu, không chịu nổi, hoàn cảnh ấy sai ngươi đến đây thuyết khách chăng ?

Trân Hy nói:

- Kẻ trượng phu vì nghĩa dẫu tan xương nát thịt cũng chẳng phàn nàn huống chi điều khổ nhọc. Tôi đến đây không phải để thuyết khách mà để trình bày với tướng quân một điều bất nghĩa.

Hạng Vũ hỏi:

- Ðiều bất nghĩa là điều gì ?

Trần Hy nói:

- Chương tướng quân tôi khó nhọc suốt ba mươi năm trời, phò nhà Tần bảo vệ lấy giang sơn, nằm gai nếm mật nơi rừng giáo mưa tên. Lẽ ra, đó là một công trạng đối với nước Tần, thế mà Triệu Cao đem lòng gian ác, dèm siểm vua Tần, mưu kết tội Chương tướng quân tôi. Thật là điều bất nghĩa.

Hạng Vũ hỏi:

- Ngươi đem chuyện ấy nói với ta để làm gì ?

Trần Hy nói:

- Trước là để tướng quân thấu rõ được lòng dạ kẻ bất nghĩa sau là để tướng quân thấy nỗi lòng oán vọng của Chương Hàm đối với Triệu Cao.

Hạng Vũ cười lớn, nói:

- Như thế ta lại càng dễ diệt nước Tần chứ sao !

Trần Hy nói:

- Ðúng vậy. Nhưng nếu tướng quân biết lợi dụng lánh của Chương Hàm thì mới dễ, bằng để cho Chương Hàm cầm quân bảo vệ nhà Tần, tôi e khó diệt nhà Tần được.

Hạng Vũ hỏi:

- Nhà ngươi muốn ta lợi dụng lòng oán thù của Chương Hàm như thế nào ?

Trần Hy nói:

- Chương Hàm tuy bị cô lập, nhưng trong tay còn hơn mươi vạn quân, và nhiều kiện tướng, nếu cho Chương Hàm đầu Sở, chung sức diệt Tần để báo thù, đó lợi dụng được Chương Hàm đó.

Hạng Vũ vỗ án hét:

- Chương Hàm giết chết chú ta, thù ấy chưa trả, ta quyết bắt Chương Hàm sẻ thịt ăn gan, lẽ nào lại cho nó quy hàng !

Trần Hy không đáp, mỉm miệng cười.

Hạng Vũ hét lớn nói:

- Ngươi cười gì ? Muốn đem xác đến đây thử lưỡi kiếm của ta sao ?

Trần Hy nói:

- Tôi cười tướng quân chỉ chăm chăm lo việc nhỏ mà bỏ mất việc lớn. Ðã là tướng ra trận , ai vì chúa nấy, sao tướng quân lại nghĩ đến tình riêng mà cố chấp như vậy. Kẽ trượng phu vì nước quên nhà, vì lợi chung bỏ thù thù riêng mới gọi là người đại lượng.

Phạm Tăng ghé vào tai Hạng Vũ, bàn:

- Hiện nay uy thế của tướng quân rất mạnh, thế mà chưa vào được cửa quan là vì có Chương Hàm ngăn giử. Chương Hàm đầu Sở tức là trời muốn giúp tướng quân diệt Tần, tướng quân nên bỏ thù riêng lập ơn mới, Chương Hàm mang ơn tướng quân tất phải tận tâm, tận sức Ðó là thủ đoạn của kẽ anh hùng hào kiệt vậy.

Hạng Vũ nghe nói tĩnh ngộ, khen:

- Nếu không có quân sư tôi đã làm môt việc đáng tiếc.

Liền nói với Trần Hy:

- Tôi vì nặng tình gia đình mà quên nghĩa lớn. Thù thúc phụ chỉ là thù riêng, còn việc nước là việc chung của thiên hạ. không lẽ vì thù riêng mà bỏ việc công. Vậy nếu Chương Hàm thực lòng đầu Sở, ta sẽ bỏ hết thù xưa, cùng nhau cộng sự, mai sau phú quí cùng hưỏng.

Trần Hy từ giã Hạng Vũ trở về thuật lại với Chương Hàm.

Chương Hàm nói:

- Cứ như lời túc hạ thì đầu Sở là phải. Nhưng ta e Phạm Tăng nhiều quỉ kế, gạt ta đến đó ám hại chăng. Vậy túc hạ chịu khó đi một lần nữa xem hư thực thế nào.

Trần Hy vâng lời, Cởi ngựa sang dinh Sở, yết kiến Hạng Vũ và nói:

- Chương tướng quân tôi bản ý muốn đầu hàng, nhưng lại e tướng quân có nhớ thù cũ, nén chưa dám xếp giáp.

Hạng Vũ cười nói:

- Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy. Trượng phu đã nói một lời ngàn vàng khôn chuộc !

Nói xong cầm mũi tên bẻ làm đôi, giao cho Trần Hy một nữa đem về đưa cho Chương Hàm.

Chương Hàm tức tưởi khen, và nói:

- Hạng Vũ thật là kẻ anh hùng nghĩa khí, đáng cho ta theo phò.

Tức thì thăng trướng, hội chư tướng chém đầu Triệu Thường, rồi hợp hai mươi vạn quân kéo thẳng đến Chương Nam, cách trại Sở ba mươi dặm.

Hạng Vũ truyền quân trong trại đội ngủ chĩnh tề, gươm tuốt khỏi võ đứng hai hàng để thu nhận hàng tướng.

Chương Hàm đi đến trước trại Sở, xuống ngựa, thẳng vào viên môn, sụp lạy trước trướng, nói:

- Chương Hàm tôi bị Triệu Cao dèm báng, vua Nhị Thế không tiếp quân lương, sức cùng lực tận, may nhờ tướng quân rộng lượng mở đường cho chúng tôi nương tựa, ơn ấy dẫu chết chẳng dám quên. Xin đem thân trâu ngựa đền đáp.

Hạng Vũ bước xuống cầm tay Chương Hàm an ủi:

- Nay tướng quân đã đến đây cùng tôi lo chung việc thiên hạ, vậy xin hết lòng hết dạ, mai sau diệt được nước Tần công lao chẳng nhỏ....

Chương Hàm lạy tạ, rồi đem binh tướng mình nhập vào binh Sở.

Tin ấy đồn đến hàm Dương, Triệu Cao vào tâu với vua Nhị Thế:

- Chương Hàm thực có ý làm phản, nay đã đem cả binh bộ đầu Sở rồi !

Vua Nhị Thế giận dữ hạ lệnh bắt cả tôn thuộc của Chương Hàm và các tướng chém hết.

Chương Hàm hay được tin khóc sướt mướt, oán vọng Triệu Cao thấu trời, liền vào bàn với Hạng Vũ:

- Nhân lúc nhà Tần không có tướng giữ cửa quan, tướng quân nên dẫn quân qua sông Chương, đến thẳng đất Tân An và Miên Chỉ, chỉ một trận là diệt được nhà Tần.

Hạng Vũ mời Phạm Tăng vào bàn bạc.

Phạm Tăng nói:

- Binh ta ở ngoài đã lâu ngày, lương thực không được sung đủ. Còn Hoài Vương hiện ở Bành Thành thiếu người bảo giá. Vả lại Tần đất rộng, dân đông, nếu rủi ro, bề nào đầu đuôi gián đoạn. Chi bằng trở về Bành Thành cũng cố triều chính, cho quân sĩ dưỡng sức rồi lập thành hai đạo quân, chia nhau tiến vào đất Tần một lượt, như vậy mới vẹn toàn.

Hạng Vũ đồng ý, truyền lệnh rút quân về Bành Thành, vào yết kiến Hoài Vương, lại dẫn các hàng tướng nước Tần vào bệ kiến.

Hoài vương mừng rỡ, truyền mở tiệc khao thưởng ba quân, phong Hạng Vũ làm Lỗ Công phong Lưu Bang làm Bái Công cho về hươu dưỡng quân sĩ đợi ngày xuất chinh.

Bái Công từ đó tuyển tướng luyện quân, chiêu mộ kẽ hào sĩ bốn phưong. Chỉ mới hai tháng mà các mưu thần, mãnh tướng rất đông như, Tiêu Hà, Phàn Khoái, Tào Tham, Chu Bột, Vương Lãng, Hạ Hầu Anh, Sài Vũ, Ngạn Hấp, Lưu Quán, Ðinh Phục,Chu Xương, Phó Khoan, Tiết Âu, Trần Bái, Chương Thương, Nhâm Ngao. Tướng hơn 50 viên, quân hơn 50 vạn.

Còn Lỗ Công thì dưới trướng có: Phạm Tăng, Anh Bố,Quý Bố, Chung Ly Muội, Hàn Sở, Vũ Anh, Ðinh Báo, Chưong Nhĩ, Trần Dư, Cung Ngao, Tang Ðồ, Long Thư, v.v... Tướng hơn một trăm viên, quân hơn năm mươi vạn. Bái Công chú trọng vê nhân nghĩa, không thích sát phạt, dùng đức thu phục nhân tâm.

Còn Lỗ Công uy thế càng mạnh thì tính khí càng nóng nảy, các tướng sợ uy hơn là đức, cả đến vua Hoài Vương cũng có ý sợ sệt.

Hoài Vương thường nói với quần thần:

- Bái Công là người nhân hậu, sau nay có thể đem lại hạnh phúc thái bình cho trăm họ được.

Một hôm, có người từ Hàm Dương lại, kể sự tàn bạo của vua Nhị Thế và sự chuyên quyền của Triệu Cao mỗi ngày một quá quắt, trăm họ sống không yên.

Lỗ Công hay tin, vào tâu vua Hoài Vương:

- Thần luyện tập binh mã đã lâu, nay chính là lúc cần xuất quân để trừ kẻ vô đạo cứu lấy muôn dân, xin Bệ hạ chỉ phán.

Vua phán:

- Trẫm đang muốn sai hai người chia đường đánh Tần. Khanh tâu như vậy rất hợp ý.

Liền truyền Bái Công và Lỗ Công đến gần, phán:

- Trăm họ rên siết dưới ách bạo chúa nhà Tần đã lâu, cứu dân sớm được ngày nào hay ngày ấy. Nay đánh cần phải chia làm hai nẻo, vì Tần đất rộng dân đông, đánh một mặt khó lấy hết được. Tuy nhiên, trẫm chưa biết sai ai đường nào, vậy hai khanh tạm lui ra, để trẫm bàn với quần thần đã.

Quần thần đều nói:

- Ðánh Tần có hai con đường: một đường phía Ðông, một đường phía Tây. Hai con đường ấy xa bằng nhau. Tuy nhiên, muốn cho được công bình xin Bệ hạ viết một lá thăm, ai bắt trúng đường nào đi đường ấy.

Hoài Vương chuẩn tấu liền viết tên hai con đường: Ðông, Tây bỏ vào hũ.

Lỗ Công bắt trúng Ðông lộ, còn Bái Công trúng Tây lộ.

Hai bên bái tạ vua trở về chỉnh đốn binh mã xuất chinh.

Ba quân hăm hở, cờ xí rợp trời, binh nào tướng ấy rất uy nghi.

Ngày khởi hành vua Hoài Vương cầm tay Lỗ Công, Bái Công nói:

- Các khanh lập ta lên làm vua là để hợp với nguyện vọng nhân dân, song ta xét mình tài hèn, đức bạc, không đũ đem hanh phúc cho thiên hạ. Hai khanh vào đất Tần lần này, người nào vào trước được Hàm Dương ta sẽ phong cho làm vua Tần, người nào vào sau phải chịu làm tôi. Hai khanh nên ghi nhớ lời ước của trẫm. Sau này thiên hạ được thái bình các khanh để cho trẫm một nơi nhàn cư, như thế trẫm mãn nguyện.

Lỗ công và Bái Công đồng thanh tâu:

- Chúng tôi xin hết lòng vì nước, mở rộng cơ đồ, đem thiên đô về Tràng An, gây lại được cơ nghiệp hùng vĩ của nhà Châu trước kia mới toại nguyện.

Nói xong, hai ngưòi lạy tạ, kéo binh mã thẳng đến Ðịnh Ðào, hợp hai làm một, đặt tiệc ăn mừng, kết làm anh em.

Bái Công làm anh, Lỗ Công làm em, tình ý rất thân mật

Ðoạn hai người chia tay, ai đi đường nấy.

Bái Công theo Tây lộ đem quân đến ấp Bắc Xương, lúc ấy vào tiết mùa xuân, trời không nắng lắm, thỉnh thoảng có mưa phùn, ban đêm gió ngàn thổi lạnh.

Thành Bắc Xương cửa đóng kín cờ xí cắm la liệt trong thành lơ thơ với bóng quân canh.

Phàn Khoái xin đánh thành, Bái Công nói:

- Chổ này là ấp nhỏ, thành quách sơ sài. Vả lại dân chúng đã khổ cực nhiều dưới ách bạo chúa, nay ta còn sát phạt sao đành.

Lời nói đầy nhân đạo ấy đồn vang khắp nơi. Các bậc bô lão trong thành hay được bàn tán:

- Những kẽ sống dưới ách tàn bạo, mong một lời nhân nghĩa chẳng khác nào kẻ đang khát trông nước uống. Bái Công người nhân đức như thế chúng ta lẽ nào không tùng phục.

Bèn rũ nhau đến nói với quan Ấp Lệnh:

- Dân chúng tôi khổ với chế độ nhà Tần như chìm trong nước lửa. Nay gặp đại quân của Bái Công đến đây như trời hạn gặp mưa, xm quan lớn mở thành đầu hàng đê dân chúng nếm mùi ân đức.

Quan Ấp Lệnh theo lời, mở cửa thành nghênh tiếp.

Bái Công kéo quân vào thành, hạ lệnh cấm quân sĩ không dược lấy của dân một vật gì.

Trăm họ đem lòng ái mộ. Tiếng thơm đồn đi khắp nơi. Quân Bái Công đi đến đâu dân chúng đều mở cửa tiếp.

Một hôm, đến đất Cao Dương quan Ấp Lệnh là Vương Ðức ra khỏi thành ba mươi dặm đón rước, Bái Công thấy Vương Ðức nói năng hoạt bát, khí tượng hơn người, liền dắt tay vào thành, mời ngồi, và nói:

- Hiền hầu đã vui lòng qui thuận, vậy xin cùng với Bang này đi đánh Tần trừ bạo chúa.

Vương Ðức chắp tay thưa:

- Tôi tài hèn, dốt nát, không giúp tướng quân được bao nhiêu, vả lại, mấy năm chánh sách nhà Tần tàn bạo, tôi cai trị nơi đây dùng nhân nghĩa rải cho dân vì vậy dân chúng mến tôi lắm, không nỡ rời. Nơi huyện này có một hiền sĩ họ Lịch tên Tự Cơ, nhà nghèo, tính phóng đãng, tuy bề ngoài có vẽ ngông cuồng, nhưng bên trong chứa đầy mưu lược. Nhân lúc thiên hạ loạn lạc, nhà Tần đốt sách, chôn học trò, liền mới mượn chén giả say. Ông ta thường nói với tôi: Tôi say suốt ngày, nhưng nếu gặp minh quân tôi tĩnh lại ngay. Xin tướng quân cho cho mời người ấy làm chức Biệt Giá để sớm tối bàn bạc thì ích lợi hơn tôi nhiều.

Bái Công mừng rỡ, nhờ Vương Ðức đi mời Lịch Sinh.

Ðến nơi, Lịch Sinh còn đang say, nằm chưa dậy.

Gia đồng đánh thức, Lịch Sinh khoác áo ra chào và nói:

- Hôm nay quý chức hạ cố đến tệ xá hẳn có điều chi dạy bảo ?

Vương Ðức nói:

- Thường ngày tiên sinh ước được gặp minh chủ, nay tôi xem Bái Công, người khoan nhân đại độ, đáng bậc đế vương, tôi đã tiến dẫn tiên sinh làm chức Biệt giá, xin tiên sinh bằng lòng cho.

Lịch Sinh nói:

- Tôi đã có nghe đức độ của Bái Công, song chưa giáp mặt chẳng biết lời đồn đãi ấy hư thiệt thế nào. Nếu quả gặp được minh chủ từ nay tôi hết say.

Dứt lời, cười ha hả, sửa soạn khăn áo theo Vương Ðức vào thành, yết kiến Bái Công.

Bái Công đang ngồi cho hai tỳ nữ rửa chân, Lịch Sinh chỉ xá một cái chứ không lạy. Rồi qua một lúc cất tiếng hỏi:

- Túc hạ muốn giúp nhà Tần đánh chư hầu hay giúp chư hầu đánh nhà Tần ?

Bái Công thấy Lịch Sinh già nua, ăn nói sổ sàng như thế, cau mày, mắng:

- Chà ! Anh hủ nho này hỏi mới ngu chứ ! Thiên hạ khổ vì nhà Tần đã lâu, nay ta phụng mệnh vua Hoài Vương trừ bạo chúa, cứu muôn dân, sao lại dám nói giúp nhà Tần ?

Lịch Sinh nói:

- Túc hạ muốn đánh Tần trừ bạo chúa, cất nghĩa binh thu phục lòng người, thế mà lại đối xử với hiền sĩ bằng cử chỉ ngạo như thế đó thì ai còn giúp mình lo việc lớn.

Bái Công nghe nói, thôi rửa chân, vội vàng đội mũ, mặc áo, mời Lịch Sinh lên ngồi, và xin lỗi:

- Vừa rồi tôi vô ý, không biết tiên sinh, lỡ thất lễ xin tiên sinh vui lòng hỉ xả.

Qua một lúc, Bái Công hỏi:

- Tiên sinh đã hạ cố đến đây, có điều gì cao kiến xin chỉ giáo ?

Lịch Sinh đem chuyện lục quốc tung hoành, và chánh sách tàn bạo của vua Tần ra nói, miệng như nước chảy thao thao bất tuyệt. Bái Công lấy làm đắc ý, hỏi đến mưu đánh Tần.

Lịch Sinh nói:

- Túc hạ đem đoàn quân ô hợp vào đất Tần chẳng khác nào lùa bầy dê vào hang cọp. Tôi thấy sự thất bại trước mắt.

Bái Công nói:

- Tôi lấy nghĩa binh đánh với quân bất nghĩa cớ sao thất bại ?

Lịch Sinh nói:

- Ðành vậy ! Nhưng binh Tần đông, lương thực đầy đủ, việc nghĩa có sức mạnh lâu dài, bạo lực có sức mạnh cấp thời. Túc hạ không củng cố căn bản thì khó thắng được.

Bái Công hỏi:

- Ý tiên sinh muốn phải làm thế nào ?

Lịch Sinh đáp:

- Trần Lưu là cho xung yếu nhất trong thiên hạ, bốn mặt tám bề hình thể hiểm trở, trong thành lương thảo rất nhiều, quan Thái Thú là Trần Ðồng vốn có quen với tôi. Tôi có thể dụ được. Nếu lấy Trần Lưu làm chổ căn bản trú quân, rồi thừa cơ chiếm Quan Trung, đó là thượng sách.

Bái Công mừng rỡ, nhờ Lịch Sinh đến Trân Lưu phủ dụ.

Quan lệnh Trần Lưu nghe Lịch Sinh đến, ra đón vào hậu đường đặt tiệc khoản đải.

Lịch Sinh nói:

- Làm tôi chọn chúa mà thờ. Lâu nay vì nhà Tần vô đạo. Tôi mượn chén giả say, gát bỏ việc đời. Vừa rồi, gặp được Bái Công là đấng hiền lương, đáng mặt minh chủ, tôi đã đem thân quy phục. Hiền hầu giữ cái thành nhỏ này, dưới chánh lệnh tàn bạo, muôn dân thán oán, chi bằng theo giúp Bái Công phất cờ khởi nghĩa cứu lấy muôn người khỏi cảnh lầm than.

Trần Ðồng ngồi cúi mặt suy nghĩ một lúc rồi nói:

- Tiên sinh nói cũng phải, song tôi ăn lộc nước, nỡ nào phản lại nhà Tần.

Lịch Sinh vừa cuời vừa nói:

- Vua Tần tàn bạo, làm khổ trăm họ, giết đi là chánh đạo, sao lại bảo là phản ?

Trần Ðồng đứng dậy nói:

- Tôi xin lĩnh ý tiên sinh.

Hai người tâm sự một lúc rồi mở cửa thành đón Bái Công vào.

Bái Công đóng quân nơi Trần Lư ngót một tháng, chiêu tập binh mã các cứ được thêm hơn năm vạn.

Lương thực sung túc, quân lực dồi dào.

Bái Công nói với Lịch Sinh:

- Từ khi gặp tiên sinh, tôi chẳng khác nào như cá gặp nước, ơn tiên sinh rất lớn.

Nói rồi phong cho Lịch Sinh làm Quảng Dã quân, ở luôn bên cạnh bàn mưu giúp kế.

Lịch Sinh nói:

- Tôi tuy được túc hạ trọng đãi. song tài năng chưa đáng với lòng ưu ái của túc hạ. Gần đây có một người gồm đủ kinh luân, thừa tài thao lược, mưu trí dẫu Y Doãn đời vua Thang, Lã Vọng đời nhà Châu cũng chưa hơn nổi. Nếu được người ấy giúp sức lo gì không thu đoạt thiên hạ, diệt nhà Tần ?

Bái Công hỏi vội:

- Người ấy là ai ? Hiện ở đâu ?

Lịch Sinh nói:

- Người ấy hiện ở nước Hàn, họ Trương tên Lương, chữ là Tử Phòng, quyến thuộc năm đời làm tướng nước Hàn. Nay muốn vì nước Hàn báo thù, nhưng nước Hàn mới lập thế quân còn yếu ớt chưa khởi sự được.

Bái Công nói:

- Người ấy đã làm tướng nước Hàn, lẽ nào còn chịu đến giúp ta.

Lịch Sinh nói:

- Tôi có một kế, dụ Trương Lương đến đây, rồi dùng lời khích lệ tất Trưong Lương phải theo ta.

Bái Công nói:

- Xin tiên sinh vì tôi bày kế.

Lịch Sinh nói:

- Túc hạ viết môt phong thư sai người đem đến nước Hàn, mượn 50000 hộc lương. Nước Hàn không có lương tất cho Trương Lương sang giúp.

Bái Công theo lời, viết phong thư gửi cho vua Hàn.

Vua Hàn mở thư ra xem, trong thư nói:

Ðại tướng quân nước Sở là Lưu Bang kkính dâng Hàn vương điện hạ nhã giám.

Trộm nghĩ: Thủy Hoàng vô đạo, Nhị Thế bất lương, trăm họ khổ đau, oán hờn chồng chất. Tôi nay phụng mệnh Sở Hoài Vương trả thù cho sáu nước bị diệt vong, cứu thiên hạ qua cơn tai biến, ngặt vì quân đi trăm dặm, lương thực không đủ dùng, vậy sai sứ thần là Lịch Tự Cơ sang vay quý quốc năm mươi vạn hộc lương, chờ lúc diệt xong nước Tần sẽ hoàn lại. Xin cho đó là việc nghĩa, mà cũng là nhiệm vụ chung chớ chối từ. Nay kính thư

Hàn Vương xem thư xong. họp quần thần nghị luận.

Quần thần nói:

- Nước Hàn ta mới lập, binh lương nghèo nàn, tự mình cứu mình còn chưa xong, lấy đâu để giúp người ?

Hàn vương nói:

- Bái Công phụng mệnh đánh Tần, thực là việc chung của thiên hạ. Ta cũng có một phần trách nhiệm đối với chư hầu, lẽ nào từ chối. Nếu muốn góp phần giúp đở thì lấy đâu ra năm vạn hộc lương. Khó thay !

Trương Lương bước ra tâu:

- Xin Ðại vương tiếp sứ, tôi sẽ theo sứ thần đến yết Bái Công và có cách giải được điều khó khăn đó.
Về Đầu Trang Go down
  • Trả lời chủ đề này

Bài gửi by Admin Wed Apr 22, 2015 6:16 am

Hán Sở tranh hùng Empty Re: Hán Sở tranh hùng

Admin
Admin
Administrator
Administrator

Tổng số bài gửi : 5122
Points : 8388
Reputation : 1360
Join date : 21/11/2014
Đến từ : Tp.HCM

https://ccxiqi.forumvi.com
Hồi 8

Cung Vọng Di, Nhị Thế bị hại

Ðất Bái Thượng, Lưu Bang lui quân

Thấy Trương Lương tình nguyện đến yết kiến Bái Công.

Hàn Vương nói:

- Nhà ngươi nên khéo léo, đừng để mất lòng Bái Công.

Lich Sinh nghĩ thầm:

- Trương Lương đã trúng kế ta rồi !

Liền từ giã Hàn Vương, dắt Trương Lương đến yết kiến Bái Công.

Dọc đường, Trương Lương mỉm cười, tự nghĩ:

- Ý Lịch Sinh đến đây cốt mượn ta chớ đâu phải rnượn lương. Ta đi đây cốt để xem thử Bái Công đãi người như thế nào ?

Bái Công vốn đã bàn mưu với Lịch Sinh nên sắp xếp sẳn sàng đợi Trương Lương.

Khi đươc tin, Bái Công sai Phàn Khoái ra rước.

Thoạt nhìn thấy Phàn Khoái, Trương Lương nghĩ thầm:

- Người này quả là một bậc khai quốc công thần.

Khi vào đến cửa, Bái Công lại dẫn Tiêu Hà, Tào Tham ra tiếp đón.

Trương Lương thấy Bái Công mũi lớn, mặt rồng, thật đáng là một vị an bang chân mệnh, còn bọn Tiêu Hà mày ngài, hàm én, trông đúng là những bậc anh hùng cái thế, lòng mừng thầm:

- Có minh quân tất có tôi hiền. Ta đi chuyến này đúng là gặp dịp. Xưa kia thầy ta Hoàng Thạch Công bảo sau này phò thánh quân lưu danh vạn cổ, thế thì đây là nơi dung thân rồi.

Nghĩ vậy, liền đến vái lạy Bái Công và nói:

- Nay Minh công đem quân đánh Tần, đi đến đâu trăm họ cung đốn đầy đủ, lương thực ê chề, cớ sao lại nghe lời anh cuồng sĩ đến nước tôi mượn lương ? Hay là Minh công muốn mượn Lương tôi đến giúp việc chăng ?

Bái Công nghe Trương Lương nói thất kinh, không biết trả lời thế nào.

Tiêu Hà vội đỡ lời.:

- Chúa tôi lấy cớ mượn quân lương, nhưng kỳ thực muốn mượn Trương Lương đó. Còn tiên sinh lại đây yết kiến Chúa tôi, kỳ thực là để thuyết khách. Tuy nhiên tiên sinh lại không dở giọng thuyết khách, có lẽ tiên sinh thấy Chúa tôi có thể giúp tiên sinh thỏa được chí bình sinh chăng ?

Trương Lương nghe Tiêu Hà nói chắp tay xá một cái và nói:

- Tâm cang tôi túc hạ đã thấu rõ, tôi không dám chối, xin đem thân giúp Minh Công, song phải trở về tâu lại với Hàn Vương tôi đã, rồi mới dám tùy hành.

Bái Công mừng rỡ, mở tiệc tiếp đải Trương Lương rất ân cần.

Hôm sau. Bái Công cùng đi với Trương Lương qua Hàn thành.

Hàn Vương được tin dẫn bá quan ra nghênh tiếp.

Hàn Vương nói:

- Tiểu quốc tôi mới lập, thực còn nghèo lắm, không lấy gì giúp đỡ túc hạ được. Vừa rồi tôi có sai Trương Lương đến cáo lổi, chẳng hay túc hạ có niệm tình chăng ?

Bái Công nói:

- Ðiện Hạ không có lương, tôi đâu dám nài ép. Nay tôi đem quân đánh Tần, nghe Tử Phòng là người thao lược, vậy xin mượn Tử Phòng ít lâu, sớm tối bàn việc quân cơ, chờ lúc diệt Tần xong sẽ giao trả lại.

Hàn Vương nói:

- Trương Lương với tôi không thể xa rời được một chốc, nay tướng quân. vì việc chung của thiên hạ mà mượn, tôi cũng vui lòng. Song, sau khi thành công phải trã lại, chớ sai ước.

Bái Công vâng lời, bái tạ Hàn Vương rồi cùng Trương Lương trở về dinh.

Từ đó, Bái Công với Trương Lương ăn cùng mâm, ngồi cùng chiếu, đêm ngày bàn bạc việc thiên hạ.

Trương Lương đem cái sách lục thao tam lược nói không hề thiếu sót chỗ nào.

Trương Lương khâm phục, nhủ thầm:

- Từ khi Hoàng Thạch công cho ta quyển sách này, ta giảng cho ai nghe cũng lờ mờ không hiểu nổi, thế mà Bái Công chỉ nghe qua đã tinh tường, không sót một nghĩa, thật là kẻ thông minh đáng vì chân chúa.

Sau một thời gian chỉnh đốn quân binh, Bái Công nhổ trại kéo vào cửa quan đất Tần.

Vừa đến đất Vũ Quan, bỗng có một đạo quân từ trong núi xông ra đón lại, cầm đầu là một viên đại tướng hình dung tuấn tú, diện mạo đường đường, hét lớn:

- Hởi Bái Công, hãy ra đây hội kiến cùng ta.

Hai tướng tiên phuông của Bái Công là Phó Khoang và Phó Bất nổi giận giục ngựa tới đánh.

Ðánh được vài mươi hiệp, tướng ấy bắt sống Phó Khoang, còn Phó Bất thua chạy.

Phàn Khoái đi trung đạo, thấy tiền quân dồn lại, nghe hai tướng tiên phuong bị bạ, liền xông đến đánh.

Tướng ấy nói:

- Ta muốn mời Bái Công ra đây nói chuyện, sao các ngươi lại hung hăng thế ?

Phàn Khoái vung tít cây phương thiên họa kích, hét:

- Nếu đỡ nổi cây kích của ta thì ta mới mời chúa công ra cho ngươi nói chuyện, bằng không đừng có phách lối.

Nói xong vung kích đâm tới. Hai bên rước đánh. Ðánh nhau hơn sáu mươi hiệp vẫn chưa phân thắng bại.

Trương Lương nói với Bái Công:

- Tôi xem tướng ấy không phải là kẻ tầm thường, nay muốn gặp Chúa công hẳn có điều gì muốn nói, xin Chúa công chớ bỏ qua.

Bái Công liền giục ngựa đến trước hỏi:

- Tướng quân muốn thấy Lưu Bang này có điều chi chỉ giáo chăng ?

Tướng ấy thấy Bái Công ăn nói nhã nhặn khí tượng ung dung, liền xuống ngựa thủ lễ và hỏi:

- Tôi đợi Minh công ở đây đã lâu, nay đặng gặp mặt thật vạn hạnh. Vừa rồi tôi đánh nhau với các tướng cốt là để thí võ chứ không dám có ý đối địch.

Bái Công hỏi:

- Dám hỏi tướng quân danh hiệu là chi ? Quê quán ở đâu ?

Tướng ấy đáp:

- Tôi họ Quán tên Anh, quê ở Lạc Xuyên. Trước đây tôi đi buôn bán ở Tây Xuyên, một hôm gặp bọn giặc cỏ hơn một trăm đứa đón đường cướp giựt, tôi độc lực ra đánh, bọn chúng đầu hàng. Nhân cơ hội, tôi ở lại sào huyệt, chiêu thêm binh mã, định trừ bạo chúa cứu muôn dân. Ðoàn quân tôi hiện được hơn ba ngàn, nay nghe Minh công vì nghĩa, cất binh đánh Tần nên đón nơi đây để đầu hàng. Nếu ngài không chê bất tài, tôi xin làm tiên phuông đi đánh giặc.

Bái Công mừng rỡ, thu nhận Quán Anh, để cùng đi đánh Vũ Quan.

Tướng giử Vũ Quan là Chu Mạnh, thấy thế binh của Bái Công quá mạnh, không dám ra đánh, sai sứ về Hàm Dương cứu cấp.

Triệu Cao hay tin thất kinh, không dám tâu cho vua Nhị Thế biết. Muốn sai tướng ra quân, nhưng không có tướng nào đảm nhiệm được. Một ngày hai ba tin cáo cấp. Triệu Cao sợ vua Nhị Thế bắt tội, giả bệnh không vào triều.

Vua Nhị Thế không hề hay biết gì cả, suốt ngày đêm vui chơi với phi tần trong cung A Phòng.

Một hôm, nằm chiêm bao thấy mình đi săn, bị một con bạch hổ trong bụi cây nhảy ra vồ. Vua Nhị Thế thất kinh đòi quan Chiêm bốc đến hỏi.

Quan Chiêm bốc tâu:

- Ðiềm chiêm bao rất dữ, xin bệ hạ xa lánh cung A phòng mới mong tránh được tai nạn.

Vua Nhị Thế theo lời, dời giá sang Vọng Di. Từ đó suốt ngày lo sợ, ăn ngủ không yên.

Một hôm, hỏi bọn tả hữu:

- Trong nước lâu nay được yên ổn chăng ?

Bọn tả hữu lau nước mắt tâu:

- Quân Sở đánh đến Vũ Quan rồi, các nước chư hầu đều họp quân trợ giúp. Nhà Tần ta chẳng bao lâu phải mất.

Vua Nhị Thế thất kinh, đòi Triệu Cao đến hỏi:

Nhưng Triệu Cao giả bệnh từ chối, và nghĩ thầm:

- Nếu ta chẳng lo bảo tồn tánh mệnh, sau này hối chẳng kip.

Liền mật đòi người rể là Diêm Nhạc và em ruột là Triệu Thành đến bàn:

- Nay quân giặc đã đánh đến cửa quan, trong triều không còn tướng nào đủ sức chống cự. Vua Nhị Thế lại đổ tội cho ta, chẳng lẽ khoanh tay ngồi chịu chết. Các người phao tin đồn trong cung có giặc, rồi đem quân đến cung Vọng Di, bắt vua Nhị Thế giết quách đi, tôn công tử Tử Anh là người hiền đức có thể dùng trấn an thiên hạ được.

Diêm Nhạc và Triệu Thành tuân lệnh dẫn một ngàn binh mã đến vây cung Vọng Di, bắt bọn quân canh trói lại, và nói:

- Giặc vào thành, sao chúng bay không biết ?

Quân canh run rẩy nói:

- Bốn mặt thành đêu có binh tướng canh gác ngày đêm, làm gì có giặc.

Diêm Nhạc chém đầu bọn canh cửa, rồi truyền quân đánh vào.

Bọn hoạn quan hầu cận thất kinh chạy tán loạn.

Triệu Thành, Diêm Nhạc thẳng đến chỗ vua Nhị Thế, vung gươm hét lớn :

- Nhà vua ác nghiệt ! thiên hạ than oán, chư hầu đều phản, giặc giã khắp nơi, nay lại cứ an hưỡng cảnh vàng son sao ?

Vua Nhị Thế hỏi:

- Ai bày các ngươi làm chuyện phản phúc vậy ?

Triệu Thành nói:

- Nhà vua thiếu đức cần phải chọn vua khác để cứu giang sơn, lòng dân muốn vậy.

Vua Nhị Thế nói:

- Thừa Tướng đâu ? Ta có thể gặp mặt được chăng ?

Diêm Nhạc quắc mắt, hét:

- Không được.

Vua Nhị Thế ngập ngừng nói:

- Thế trẫm xin làm chức Vạn Hộ Hầu có được chăng ?

- Không được.

Thế trẫm xin được sống với vợ con có được chăng ?

- Không được.

Thế các khanh nhất định không để trẫm sống !

Triệu Thành nói:

- Một ông vua bị phế không thể sống. Nếu nhà vua biết điều nên tự xử lấy mình. Chúng ta vâng mệnh Thừa Tướng đến đây, đừng kêu ca vô ích !

Nhị Thế thấy không thể bảo vệ cái sống được nữa đành phải tự vẫn.

Triệu Thành, Diêm Nhạc trở về báo lại với Triệu Cao:

- Nhị Thế tự tử rồi, Thừa Tướng mau lập vua khác.

Triệu Cao liền họp quần thần tuyên bố:

- Vua không nghe lời can gián của ta, làm lắm điều bạo ngược khiến thiên hạ loan lạc, điêu linh, chư hầu nổi lên làm phản, nay ta đã giết vua rồi. Nước Tần từ xưa vẫn xưng vương, đến đời Thủy Hoàng lại xưng đế, làm phật ý chư hầu. Nay bỏ hiệu xưng đế, xưng vương như cũ, bình đẳng với sáu nước, tự nhiên sáu nước sẽ hài lòng rút quân về, các quan nghĩ sao ?

Các quan đều nói:

- Thừa Tưóng nói phải lắm.

Triệu Cao lại nói:

- Tử Anh là cháu gọi vua Nhị Thế bằng chú, vốn nhân đức, đáng lập lên kế vị, các quan nghĩ sao ?

Các quan đều nói:

- Thừa Tướng nói phải lắm.

Triệu Cao truyền đem hài cốt vua Nhị Thế chôn nơi vườn Nghi Xuân, rồi cùng quần thần đem ngọc tỷ đến mời Tử Anh lên ngôi.

Tử Anh bình nhật thấy Triệu Cao dua nịnh, hãm hại tôi trung, lòng không phục. Tuy nhiên, lại cũng không thể vì vậy mà bỏ sự nghiệp tổ tiên, nên nói:

- Ta phải trai cung năm ngày mới có thể tức vị được.

Ðêm đến, Tử Anh gọi hai con đến bảo:

- Triệu Cao phản nghịch giết vua, sợ đình thần bắt tội mới giả nhân nghĩa đến đón ta về làm vua. Nếu để Triệu Cao, trăm họ oán vọng. Hai con nên cùng với gia tướng Hàm Ðàm, Lý Tất đem quân đao phủ phục ở sau nhà Thái Miếu. Hết hạn, năm ngày ta cáo ốm không đến triều, thế tất Triệu Cao phải thân hành đến đón. Chừng ấy hai con hô phục binh nổi dậy giết quách đi dể rửa thù cho tiên vương

Hai vị công tử tuân lệnh đến dẫn gia tướng và đao phủ phục sẵn nơi trai cung.

Ðến hôm thứ năm, Triệu Cao nghe báo Tử Anh bị bệnh liền thân hành đến trai cung thăm viếng.

Ðến nơi, không thấy Tử Anh đâu, bỗng nghe tiếng quát to đứa phản tặc đã đến kia. Quân đâu, hãy bắt nó.

Triệu Cao thất kinh, toan bỏ chạy, nhưng binh phục đã áp đến bằm Triệu Cao nát như tương.

Giết xong Triệu Cao, Từ Anh vào triều, quần thần rước lên ngôi, xưng hiệu Tam Thế Hoàng Ðế.

Vua Tam Thế truyền bắt cả tôn tộc của Triệu Cao giết hết, bêu đầu trước chợ Hàm Dương.

Dân chúng trông thấy ai nấy đều hả dạ.

Vua Tam Thế hỏi quần thần:

- Trẫm mới lên ngôi, trong triều chưa định, ngoài thì quân Sở hoành hành, các khanh có kế gì chăng ?

Quần thần tâu:

- Ðịch quân kéo đến cửa quan tình thế rất gấp, xin bệ hạ sai tướng ra giữ cửa quan trước, còn việc triều chính sẽ định sau.

Vua Tam Thế theo lời, sai Hàn Vinh và Cảnh Bái dẫn năm vạn quân hiệp lực với Chu Mạnh cố thủ nơi quan ải.

Bái Công dẫn quân đến cửa Quan Trung thấy bọn Hàn Vinh đã đặt quân canh phòng cẩn mật, khó vượt qua được, liền hội chư tướng bàn luận.

Trương Lương nói:

- Quân Tần mạnh lắm chưa thể đánh ngay được. Tướng Tần tuy cầm quân nhưng cũng rõ được lẽ tồn vong trong thiên hạ. Nay hãy tạm dừng binh lại, sai người lên đỉnh núì cạnh cửa quan, cặm cờ đỏ để làm thinh thế, rồi sai Lục Giả, Lịch Tư Cơ sang làm thuyết khách, lấy lẽ phải trái dụ hàng, đợi cho quân địch chểnh mảng không phòng bị, ta sẽ thừa cơ tấn công thì mới thắng.

Bái Công theo lời cho quân lên núi cắm cờ la liệt, rồi sai Lục Giả và Lịch Tư Cơ sang du thuyết.

Lục Giả và Lịch Tư Cơ sang yết kiến Hàn Vinh, Chu Mạnh.

Lục Giả nói:

- Nay quân Tần vô đạo, trăm họ khổ sở, thiên hạ đua nhau dấy nghĩa ! Lòng dân đã muốn tất trời phải theo. Nếu tướng quân biết thương dân, không muốn cho dân lâm vào cảnh binh đao tang tóc, xin mở cửa thành đầu hàng.

Bái Công sẽ tâu với vua Nghĩa Ðế phong tướng quân hàm Vạn Hộ Hầu thì danh tiếng không mất.

Hàn Vinh nói:

- Tôi ăn lộc nhà Tần, lẽ nào lại bội nghĩa.

Tiên sinh hãy tạm trú nơi nhà tôi, để tôi nghĩ lại đã.

Lục Giả nhận lời trở về dinh. Hàn Vinh đem việc ấy bàn với chư tướng.

Tướng lỉnh, có kẻ bảo đầu, người lại bảo không; bởi thế Hàn Vinh do dự bỏ trễ việc quân.

Hôm sau, Tự Cơ đến yết kiến Hàn Vinh, nói:

- Tướng quân đã suy xét kỹ chưa ?

Hàn Vinh thẩn thờ, nói:

- Các tướng không nhất ý, biết làm thế nào ?

Tự Cơ cười nhạt đáp:

- Cám ơn tướng quân ! Cứ như thiện cảm của tướng quân dẫu tướng quân không hàng, Chúa công tôi cũng kính mến. Tôi có đem theo một trăm nén vàng để tạ ơn tướng quân.

Hàn Vinh từ chối:

- Tôi với Bái Công là đối thủ, lẽ nào lại nhận lễ.

Tự Cơ nói:

- Tướng quân không nhận lễ là tướng quân muốn tuyệt tình với Chúa công tôi. Sau này chư hầu kéo quân tới lấy thành tất tướng quân không giữ nổi chừng ấy tướng quân muốn gây ân nghĩa với Chúa công tôi cũng khó . Chi bằng hãy tạm nhận cái lễ này để phòng bất trắc về sau, tướng quân nên nghĩ kỹ.

Hàn Vinh bấm trán đắn đo một lúc, rồi thuận tình nhận lễ vật.

Tự Cơ trở về thuật lại với Bái Công:

- Tướng Tần tuy không chịu hàng song lòng lưỡng lự việc canh phòng không còn nghiêm nhặt nữa.

Trương Lương nói:

- Thế là cơ trời đã đến

Liền gọi Tiết Âu và Trần Bái đến, bảo:

- Hai ngươi dẫn vài mươi quân kỵ lẻn vào con đường tắt sau chân núi, đốt lửa sau thành làm kế nghi binh. Ta cùng Hàn Khoái đem đại binh đánh vào mặt thành, chúng sẽ tưởng quân ta chận hai đầu tất sợ hãi bỏ thành chạy .

Các tướng làm y kế. Quả nhiên quân trong thành hoảng hốt chạy tán loạn.

Hàn Vinh từ khi nhận lễ, không nghĩ đến việc đánh giặc nữa, cả ngày chỉ uống rượu làm vui.

Khi nghe tiếng quân ó vang trời, mặt trước và mặt sau lửa cháy đỏ rực, tưởng quân Sở đã vào được thành rồi, vội khiến quân mở cửa thành ùa ra thoát nạn.

Hàn Vinh chay đến Lam Ðiền mới dám đóng quân.

Ngày hôm sau, chỉnh đốn quân ngủ kéo đến định quyết chiến

Nhưng, Trương Lương đã đoán được, cho hai đạo binh phục sẳn. Hàn Vinh vừa đến nơi, bị phục quân nổi dậy, đánh một trận tơi bời, không còn manh giáp, chạy thẳng về Hàm Dương cáo cấp.

Bái Công kéo binh thẳng đến Bái Thượng bấy giờ vào mùa đông, tháng mười, năm ất Vị, vua Tam Thế nhà Tần sợ hãi, họp quần thần thương nghị:

- Các khanh tính kế gì trong tình thế nguy cấp ?

Quan Thượng đại phu Phù Tất tâu:

- Việc này rất gấp ! Bệ hạ nên thương lấy sinh linh khuất giá ra bên đường đầu hàng để tránh tai vạ. Lòng dân lâu nay thán oán nhà Tần, dẫu có đem sức chống cự cũng vô ích.

Vua Tam Thế khóc òa, sai lấy ngọc tỷ gói vào lụa buộc vào cổ rồi đi xe mộc, ngựa trắng ra đầu hàng.

Bái Công mừng rỡ, cùng vua Tam Thế thi lễ.

Vua Tam Thế khúm núm thưa:

- Tử Anh này là kẻ bất tài thiếu đức, không đáng làm chủ muôn dân. Nay thấy tướng quân xa giá Tây chinh, tình nguyện đầu hàng, tránh cảnh lửa binh, cứu nguy trăm họ.

Nói xong, đem ngọc tỷ dâng lên.

Bái Công thu nhận và nói:

- Quân hầu đã dốc lòng qui hàng tôi xin bảo tấu với vua Nghĩa Ðế ân xá cho. Ðoạn, giao Tử Anh cho người coi giữ.

Chư tướng đều nói:

- Tần Vương bạo ác, tội đáng giết sao Minh Công lại tha ?

Bái Công nói:

- Kẻ bạo ác chỉ khi nào nắm được quyền hành trong tay mới làm được chuyện đó. Nay nhà Tần đã mất, còn bạo ác được sao ? Vả lại giết một kẻ quy hàng là điều bất nghĩa, sau này ai còn dám đầu hàng nữa.

Nói xong cất quân vào thành, truyền mở tiệc khao thưỏng ba quân.

Nhà Tây Tần từ vua Trang Vương đến đời Nhị Thế, tất cả được 43 năm và vua Tam Thế lên ngôi được 43 ngày.

Hàm Dương cung điện nguy nga, lầu đài tráng lệ, 36 cung, 24 viện, nào lầu ngọc nhà vàng, nào tường hoa thềm gấm, đâu đâu cũng rực rỡ muôn màu.

Chư tướng tranh nhau kho vàng lấy của cải, chỉ có Tiêu Hà không lấy gì cả, vào ngay phủ Thừa Tướng thu đồ tịch (sổ đinh và sổ điền). Bởi thế, Bái Công được biết nơi nào hiểm yếu, nơi nào đông dân, nơi nào nghèo, nơi nào giàu.

Bái Công vào cung A Phòng thấy mỹ nữ dẩy đầy như một vườn hoa muôn sắc, ra đến triều đường thấy ngai vàng, bệ ngọc uy nghi, bèn tấm tắc khen:

- Nhà Tần phú quý đến thế này là cực phẩm ! Ðời ta chưa từng thấy bao giờ.

Rồi quay lại nói với chư Tướng:

- Ta muốn ở đây trấn an nhân tâm, tự nhiên các chư hầu không còn cạnh tranh nữa.

Phàn Khoái thấy Bái Công đắm say cảnh vàng son hoa mỹ liền can:

- Ðây chỉ là một khung cảnh vong quốc sao Minh công lại thích nó làm gì ? Bởi xa xỉ thế này mà nhà Tần diệt vong. Xin lấy cái gương ấy tránh xa là hơn.

Bái Công do dự, Trương Lương nói tiếp:

- Trong mê sắc đẹp, ngoài thích chim muông, vẽ cột, sơn tường, rượu chè, hát xướng. Phạm một trong các điều ấy tức là triệu chứng bại vong. Vì cái giàu sang vô đạo của Tần mà Minh công mới đến được nơi đây. Nay thiên hạ chưa định, Minh công đã say mê sự giàu sang còn ai phục mình nữa. Xin Minh công nghe lời Phàn Khoái chớ lưu luyến.

Bái Công vở lẽ, truyền niêm phong cung điện, dẫn quân về Bái Thượng đồn trú đợi quân chư hầu đến.

Tiêu Hà nói:

- Dân chúng lâu nay cam khổ dưới chế độ nhà Tần.

Nay Minh công trừ được nhà Tần cũng nên tuyên bố một vài ân đức để được lòng dân.

Bái Công nói:

- Vàng son đã làm cho óc ta u tối, quên điều đại nghĩa.

Liền truyền xuống các huyện, họp tất cả thân hào, bô lão đến Bái Thượng, hiểu dụ rằng:

- Pháp luật nhà Tần quá khắc nghiệt, dân sống không yên, muôn ngàn khốn đốn. Ta nhận lời ước của Hoài Vương: "Vào được Quan Trung trước thì làm vua nước Tần". Nay ta vào trước, lấy tư cách lời ước ấy ban bố bỏ các luật lệ của nhà Tần, chỉ để lại ba điều như sau:

Giết người phạm tội chết, hại người và ăn trộm bị tội nặng, còn các tội khác tùy nặng nhẹ lượng tình phân xử.

Ta đến đây chỉ cốt vì dân trừ hại, dân sự cứ yên ổn làm ăn đừng lo sợ.

Nói xong, truyền lệnh ba quân không được quấy nhiễu dân chúng, ai trái lệnh bị tội chém.

Dân chúng thấy Bái Công nhân đức như vậy tranh nhau đem trâu, dê, cơm, rượu đến hiến thưởng quân sĩ.

Bái Công không nhận, nói:

- Thóc kho còn nhiều, chẳng dám phiền đến dân.

Trong lúc Bái Công đã lấy được Hàm Dương, diệt nhà Tần an định dân chúng, thì Hạng Vũ mới lấy được Hà Bắc, đem hết quân chư hầu kéo vào Quan Trung để tiến vào Hàm Dương.

Bấy giờ, cửa Quan Trung, quân Bái Công chiếm giữ.

Hạng Vũ truyền đóng trại ngoài thành để liệu kế.
Về Đầu Trang Go down
  • Trả lời chủ đề này

Bài gửi by Admin Wed Apr 22, 2015 6:17 am

Hán Sở tranh hùng Empty Re: Hán Sở tranh hùng

Admin
Admin
Administrator
Administrator

Tổng số bài gửi : 5122
Points : 8388
Reputation : 1360
Join date : 21/11/2014
Đến từ : Tp.HCM

https://ccxiqi.forumvi.com
Hồi 9

Xem thiên văn Phạm Tăng đoán thời

Vì cựu nghĩa, Hạng Bá cứu bạn

Ðêm ấy, Hạng Vũ lẻn đi tuần các doanh trại.

Vừa đến trại hàng tốt quân Tần, thấy quân sĩ thì thào nhau:

- Chúng ta bị Chương Hàm đánh lừa, theo hàng Hạng Vũ, ông ta chỉ chuyên về bạo ngược, thưởng phạt bất công. Nghe nói Bái Công là ngườl nhân đạo, không hay chém giết, lại vào được Quan Trung trước chắc sau này sẽ làm vua thiên hạ. Bọn mình rủi không được theo người ấy.

Hạng Vũ nghe đến đấy lòng căm tức, trở vào trung quân gọi Anh Bố đến truyền:

- Hàng tốt nhà Tần muốn làm phản, ta vừa đi tuần, nghe chúng bàn nhau. Vậy phải trừ bỏ để khỏi lo hậu hoạn, chỉ chừa lại Chương Hàm, Tư Mã Hân và Ðổng Ê mà thôi.

Phạm Tăng thấy Hạng Vũ xử sự như vậy, can:

- Không nên. Ðối với sĩ tốt cần phải lấy lượng khoan hồng chinh phục. Tướng quân dùng hình phạt chỉ làm cho ba quân sợ mà không phục.

Hạng Vũ không nghe. Ðêm hôm ấy Anh Bố đem ba mươi vạn quân đến thành Nam và chỗ hàng tốt nhà Tần đóng, bắt tất cả hai mươi vạn người đem chôn sống hết ! Chỉ để lại ba hàng tướng mà thôi.

Chương Hàm thấy vậy thở dài, vội đến trung quân lãnh tội.

Hạng Vũ nói:

- Ba người không có tội gì, đừng ngại. Bởi vừa rồi ta đi tuần, nghe bọn hàng tốt âm mưu làm phản nên buộc lòng ta phải trừ bỏ đấy thôi.

Sáng hôm sau Hạng Vũ kéo quân đến trước mặt thành. Phàn Khoái hay tin, vội đến nói với Bái Công:

- Nước Tần giàu, địa thế hiểm trở, nay nghe Hạng Vũ phong hàng tướng nhà Tần là Chương Hàm làm vua, hiện kéo binh đến cửa quan, ý muốn vào chiếm Hàm Dương trái lời ước của vua Nghĩa Ðế, nếu không lo sớm e mang hại.

Bái Công nói:

- Nếu Hạng Vũ đến đây, uy thế ta không còn nữa.

Phàn Khoái nói:

- Hãy sai tướng ra giữ cửa Hàm Cốc, không cho quân chư hầu vào, rồi mộ thêm quân Quan Trung cự địch.

Bái Công theo lời, sai Tiết Ân và Trần Bái ra giữ cửa quan.

Hạng Vũ thấy quân Bái Công đóng chặt cửa thành, canh phòng cẩn mật, nói với Phạm Tăng:

- Bái Công không muốn quân chư hầu vào Hàm Dương là ý gì ?

Phạm Tăng nói:

- Bái Công muốn giữ lời ước vua Hoài Vương, làm vua Qnan Trung đó. Minh Công lập lên vua Hoài Vương, chinh chiến ba năm khó nhọc, gây dựng uy thế trong thiên hạ còn Bái Công chỉ dựa vào sự nghiệp của Minh công, chiếm đoạt công lao, như thế làm sao nhịn được ?

Hạng Vũ nói:

- Dẫu Lưu Bang có chiếm được Hàm Dương nhưng quân chưa đầy mười vạn, sức không bằng Chương Hàm, làm thế nào cự nổi ta ?

Phạm Tăng nói:

- Nay lấy cớ Bái Công đóng cửa quan, không cho chư hầu vào, đem quân đánh thành đã rồi hãy viết thư nói phải trái với Bái Công sau.

Hạng Vũ liền sai Anh Bố đem mười vạn quân công thành.

Tiết An và Trần Bái đóng cửa thành lại, tuần hành rất nghiêm nhặt.

Hạng Vũ viết thư bắn vào thành, quân sĩ lượm được cấp trình cho Bái Công xem.

Thư rằng:

"Lỗ Công Hạng Vũ kính thư Bái Công hiền huynh nhã giám.

Khi trước tôi cùng hiền huynh nhận ước vua Hiền vương kết làm anh em, hợp sức đánh Tần trừ bạo chúa, cứu muôn dân. Nay hiền huynh sớm được vào Hàm Dương, tài năng ấy tôi rất phục.

Song, nếu tôi không dựng vua Sở, thu lòng thiên hạ, không đánh Chương Hàm, thu phục chư hầu, thì nay hiền huynh có thể vào được Hàm Dương chăng ? Kẽ đắc thế thường hay quên công khó của kẽ khác. Tôi, binh hùng tướng mạnh, sức có thể xẻ núi lấp sông, sá gì một cửa thành cỏn con, mà hiền huynh ngăn đón ?

Hiền huynh nên tính kỹ, kẻo đến lúc tôi hạ thành tình nghĩa không còn. Vả lại, lời ước trước kia, tôi sẽ tự xử, hiền huynh không phải lo".

Bái Công xem thư, hỏi Trương Lương:

- Vùc này rất khó nghĩ, tiên sinh có kế chi chăng ?

Trương Lưong nói:

- Quân Hạng Vũ mạnh lắm, cửa quan không thể giử được lâu. Nếu dùng sức kháng cự quân ta sẽ bị tiêu diệt, như thế không lợi cho bước đường tiến thủ sau này. Chi bằng mở cửa quan cho họ vào rồi sẽ liệu.

Bái Công sai ngưòi cầm cờ tiết đến bảo mở cửa ải cho quân Sở vào.

Tiết, Trần, hai tướng được lệnh, leo lên mặt thành gọi lớn:

- Mời tướng Sở lại đây nói chuyên.

Anh Bố cỡi ngựa đến hỏi:

- Bọn ngươi có điều gì hãy nói mau ?

Tiết Âu nói:

- Chúa công tôi sai chúng tôi ra đây cốt đề phòng bọn cướp chứ không phải kháng cự với quân Sở. Nay tôi vừa tiếp được lệnh của Bái Công bảo mở cửa quan mời tướng quân vào. Vậy tướng quân cứ dẫn quân vào đi.

Anh Bố liền hạ lệnh kéo quân vào thành. trực chỉ đến Hồng Nhạn hạ trại.

Ðồn binh xong, Hạng Vũ sai người đi khắp Hàm Dương điều tra quân tình và hành động của Bái Công.

Riêng Phạm Tăng cũng cho người đi dò xét.

Quân thám thính trở về thuật lại mọi việc, Hạng Vũ buồn bã nói:

- Bái Công không ham vàng bạc châu báu, chinh phục lòng dân là có ý muốn làm vua đất Tần rồi !

Ðêm ấy, phạm Tăng dắt người chú của Hạng Vũ là Hạng Bá, ra bờ sông Hồng Nhạn, lên một gò cao ngắm các lâu đài cung điện nhà Tần.

Bốn bề vắng ngắt, trăng sao lấp loáng nhả ánh sáng lờ mờ trong bầu vũ trụ u huyền.

Phạm Tăng vỗ vào vai Hạng Bá hỏi:

- Hiền hữu có biết xem thiên văn chăng ?

Hạng Bá đáp:

- Tôi thuở bé có người bạn ở nước Hàn là Trương Lương, thường bàn đến thiên văn, và nói:

- Làm tướng phải biết thiên văn, phải thông địa lý, phải hiểu mây gió, phải biết khí sắc thì mới cầm quân được. Tuy nhiên, tôi chỉ biết qua loa, không rành lắm.

Phạm Tăng chỉ lên trời, dẫn giải cho Hạng Bá biết.

Trước chia phương hướng, sau án kinh, vĩ ngũ hành. Nào là mười hai đường Cháu Thiên, nào là hai mươi tám vì tinh tú, cả thảy ba trăm sáu mươi lăm độ. Ðâu là Bắc thần, đâu là Tả phù, Hữu bật, vì sao nào thuộc về Lỗ Công vì sao nào thuộc về Bái Công.

Xem qua một lượt rồi quay về phía sông Hồng Nhạn, thấy sát khí đầy trời, tướng tinh rất mạnh, nhưng chỗ ẩn phục khí vận không được tốt.

Lai quay về Bái Thượng, thấy một tòa đế tinh sáng sủa, trong như nước nguồn mới chảy, mặt trời mới mọc, long lanh muôn dậm vằng vặc một trời.

Phạm Tăng hỏi Hạng Bá:

- Hiền hữu xem Lưu, Hạng, hai người thế nào ?

Hạng Bá nói:

- Sao đế tinh chiếu về Bái Thương có lẽ vượng khí về Lưu Bang. Còn về Hồng Nhạn, tuy sát khí đây trời, song đó chỉ là tướng tinh của một trang dũng tướng chói ngời trong hoàn vũ mà thôi.

Phạm Tăng gật đầu khen:

- Ông xem thiên văn cũng khá lắm. Nhưng xưa Thân Bao Tư có nói: "Nhân định thắng thiên". Trời tạo ra định mệnh, nhưng con người cũng cố thể sửa định mệnh được. Nay chúng ta đã đem thân thờ Hạng Vũ, há dám hai lòng. Vậy cứ mưu đổi mệnh trời, dầu chết cũng cam.

Hạng Bá khen:

- Tiên sinh thực là kẽ trung liệt..

Ðêm khuya, sương xuống nhiều, hai người dắt tay nhau về trại.

Ngày hôm sau, Hạng Vũ hội chư tướng bàn luận việc binh, bỗng có quân vào báo:

- Có quan Tả Tư Mã của Bái Công là Tào Võ Thương sai người đến dâng mật thư.

Hạng Vũ truyền cho vào, và mở thư ra đọc.

Bức thư viết:

"Kẻ hèn là Tả Tư Mã Tào Võ Thương cúi đầu trăm lạy.

Thiết nghĩ: Thiên hạ sống dưới ách nhà Tần chẳng khác nào sống trong hỏa ngục. Nay nhờ uy đức của Minh Công; trở gươm sang mé Tây, nhà Tần thúc thủ, kéo quân sang Hà Bắc chư hầu ngưỡng vọng làm tôi. Công đức ấy dẫu đúc tượng vàng thờ kính muôn đời chưa xứng đáng.

Còn Bái Công chẳng qua là một kẽ xu thời, lợi dụng việc người làm việc mình, mượn uy vũ của Minh Công kéo quân vào Hàm dương, lẽ ra phải cúi đàu tùng phục, giúp Minh Công xây dựng nghiep Bá vương mới phải.

Lại dám sai quân giử cửa quan, mưu đoạt công lao, xây sự nghiệp mình trên công lao kẽ khác. Bái Công tự lượng sức mình, trứng không chọi nổi đá, nên mới mở cửa ải cho minh công vào, song vẫn âm thầm sắp sẳn quân để tác chiến. Tôi vẫn làm tôi của Bái Công, song lòng ngay không nín được, dâng bức thư này xin Minh Công xét nghĩ ".

Hạng Vũ đọc thư xong nổi giận, vỗ án hét:

- Lũ chuột đó lại cố tình muốn gây sự với ta ư ?

Phạm Tăng nói:

- Bái Công lúc còn ở Sơn Ðông là một kẻ tham tài hiếu sắc ai cũng khinh bỉ. Nay vào Hàm Dương của báu không thích, sắc đẹp không yêu, hẳn đã có chí lớn. Minh công nên liệu trước, chồi non không bẻ, rễ sâu khó đào.

Hạng Vũ lập tức truyền chỉnh đốn binh mã, kéo qua đánh Bái Thượng.

Phạm Tăng can:

- Quân ta mới đến, chớ nên kinh động, vả lại Lưu Bang vào được Hàm Dương trước nhân tâm đã phục, quân lính hơn mười vạn, thủ hạ lại đông. Chi bằng đêm hôm nay, vào đầu canh ba, chia quân làm hai đạo, kéo theo đường tắt, vào đất Bái Thượng bắt Lưu Bang chém đi là xong.

Hạng Vũ khen phải, mạt truyền quân sĩ, đúng canh ba khởi sự.

Hạng Bá là bạn thân của Trương Lương, biết Trương Lương hiện ở Bái Thượng, sợ Hạng Vũ đột kích bất ngờ, hại đến sinh mệnh bạn mình, muốn sai người đem mật thư bảo Trương Lương tránh đi nơi khác, nhưng sợ quân canh biết được không cho đi liền thân hành tìm Trương Lương.

Ðúng trong đêm ấy, Trương Lương ra ngoài xem sao thấy trên trời có môt vệt sáng, chỏ vào vùng Bái Thượng trông rất lợi hại, giữa có một đám khánh vân ấn bên trong.

Trương Lương giật mình trở lại dinh Bái Công để đàm luận.

Bái Công hỏi:

- Giờ nầy đã khuya, cớ sao tiên sinh chưa an nghỉ ?

Trương Lương nói.

- Tôi vừa xem thiên văn, thấy có sát khí chiếu vào trại, đêm nay chắc có quân Sở đến đột kích, tình hình rất nguy cấp, phải phòng bị mới được.

Bái Công giật mình nói:

- Quân ta ít, địch sao lại với quân Sở ? Tiên sinh có kế gì tự vệ chăng ?

Trương Lương nói:

- Dẫu có sát khí, nhưng bên trong lại có khánh vân che chở tôi chắc không hề gì, xin Minh công chớ lo.

Nhắc lại, Hạng Bá chờ cho đến lúc sẩm tối, một mình lên ngựa bôn bả ra cửa dinh, bỗng gặp viên tùy tướng của Hạng Vũ là Ðinh Công đang đi tuần tra, trông thấy chạy lại hỏi:

- Ngài đi đâu trong đêm tối ?

Hạng Bá đáp:

- Ta di thám thính quân tình đây.

Ðinh Công thấy Hạng Bá ra đi một người một ngựa, lại là chú của Hạng Vũ nên không dám hỏi nữa.

Hạng Bá phi ngựa về phía Bái Thượng cách trại Bái Công hai mươi dặm bọn quân tuần tiểu của Bái Công đón lại.

Tướng Hạ Hầu Anh chận đường hỏi:

- Lão tướng làm gì đến đây đêm tối ?

Hạng Bá nói:

- Tôi là bạn của Trương Lương có việc khẩn cấp xin đến yết kiến.

Hạ Hầu Anh thấy thái độ trầm tĩnh của Hạng Bá, biết không phải quân gian, liền dẫn vào trại Trương Lương.

Qua mấy vòng binh, bốn mặt tinh kỳ sáng chói, hàng ngũ đâu đó có thứ lớp.

Hạng Bá khen thầm:

- Bái Công quả không phải là kẻ tầm thường, lời khen của Phạm Tăng thật đúng vậy ?

Hạ Hầu Anh vào báo:

- Có người xưng là bạn của Trương Tiên sinh đến đây xin yết kiến.

Trương Lương mừng rỡ, vỗ tay nói lớn:

- Phúc tinh đã đến đây rồi.

Liền vội vàng ra đón tiếp. Té ra đó là Hạng Bá.

Trương Lương dắt tay Hạng Bá vào nội dinh trò chuyện .

Hiền hữu tri kỷ lâu nay không cho phép tôi vì công danh mà quên nghĩa cũ, nên đến đây nói cho hiền hữu biết; Ðêm nay Lỗ Công đến cướp trại, xin hiền hữu lánh đi kẻo mang họa.

Trương Lương nói:

- Tiểu đệ vì vua Hàn theo Bái Công, nay biết Bái Công có nạn thoát thân một mình sao đành, để tôi nói cho Bái Công biết đă.

Hạng Bá cản lại nói:

- Ấy chết ! Tôi vì hiền hữu đến đây mách bảo, nếu hiền hữu làm lộ cơ mưu, té ra tôi là người phản lại Lỗ vương sao ?

Trương Lương nói:

- Không hề chi, Bái Công quân lực yếu ớt, nếu biết cũng khó tránh nổi tai họa.

Nói xong chạy vào thuật lại với Bái Công.

Bái Công sợ hãi, hỏi:

- Việc này tiên sinh nghĩ thế nào ?

Trương Lương ghé vào tai Bái Công nói nhỏ một hồi, rồi chạy trở ra tiếp kiến Hạng Bá và nói:

- Xin mời Hạng huynh quá bộ vào tiếp Bái Công một lát để hiễu rõ đức độ của một hiền nhân.

Hạng Bá ngần ngại nói:

- Tôi chỉ cốt đến đây báo tin cho hiền huynh, vậy tiếp kiến Bái Công làm chi ?

Hạng Bá từ chối, nhưng Trương Lương nài ép mãi bất đắc dĩ Hạng Bá phải theo Trương Lương vào yết kiến Bái Công.

Bái Công sừa soạn khăn áo ra đón, và đặt tiệc khoản đãi.

Hạng Bá nói:

- Tôi vì nghĩa anh em mà lại đây, đa tạ Minh công có lòng chiếu cố.

Bái Công khiêm tốn đáp:

~ Ðây chỉ là chút tình hoài vọng bấy lâu, nay được gặp mặt. Bang này nghe ngài có hiền công tử chưa định gia thất, nay Bang có một tiện nữ, muốn cùng ngài kết nghĩa thông gia để thỏa tình tri ngộ hôm nay, và xin ngài về dinh đem cái chân tình của Bang nói với Lỗ Công; Bang này thực không có lòng dám kháng cự. Nếu Lỗ Công nguôi giận, Bang này được tái sinh, thực nhờ ơn tái tạo của ngài đó.

Hạng Bá nói:

- Hai nhà cự địch trí dũng đua nhau, tôi lại thông gia với Minh công, e người ngoài dị nghị, vì vậy tôi chẳng dám nhận lời.

Trương Lương nói:

- Hạng huynh nói cũng phải, nhưng Lưu, Hạng trước đây kết làm anh em cùng nhau hiệp lực đánh Tần, nay Tần đã bị diệt, thì hai nhà tính việc thông gia với nhau là phải lẽ, việc gì phải sợ người ngoài dị nghị.

Nói xong, Trương Lương lấy vạt áo của Hạng Bá và Bái Công cột chung lại, rồi lấy gươm cắt làm hai miếng, trao cho mỗi người một nửa.

Hạng Bá bất đắc dĩ phải nhận lời, uống thêm vài chén trà nữa rồi đứng dậy từ giã và dặn:

- Sáng mai thế nào Minh Công cũng phải đến Hồng Môn yết kiến Lỗ Công cho Lỗ Công bớt giận, tôi xin đứng ra liệu bề phân giải, thế nào Lỗ Công cũng phải nghe.

Trương Lương sai Hạ Hầu Anh dẫn hai mươi tên lính kỵ tiễn chân Hạng Bá về dinh.

Ðêm đó cuối canh hai, Phạm Tăng và Hạng Vũ kiểm điểm nhân mă để kéo sang Bái Thượng cướp trại.

Binh tướng đều đủ mặt, chỉ thiếu một Hạng Bá.

Phạm Tăng nói:

- Quái lạ ! Hạng tướng quân sao không đến ?

Minh Công nói:

- Lúc sẩm tối, tôi thấy Hạng đại nhân cỡi ngựa ra phía Ðông bảo là đi thám thlnh dân tình.

Phạm Tăng thở dài nói:

- Thế là hỏng ! Xin Minh công hãy đình binh lại đã.

Hạng tướng quân ra đi thế nào cung tiết lộ cơ mưu của ta rồi.

Hạng Vũ nói:

- Thúc phụ ta người trung thành, hơn nữa đối với ta tình ruột thịt lẽ nào đem việc cơ mật của ta tiết lộ, tiên sinh chớ ngại !

Phạm Tăng nói:

- Hạng tướng quân tuy không tiết lộ hết chuyện, nhưng đã là cơ mật nếu lộ ra một tí gì thì khó thành. Tôi thiết tưởng đêm nay không nên cất quân.

Vừa dứt lời có người vào bẩm:

- Hạng tướng quân đã về.

Hạng Vũ ra nghênh tiếp, và hỏi:

- Thúc phụ đi đâu thế ?

Tôi có bạn cũ nguời. nước Hàn, họ Trương tên Lương, từ thuở bé đến giờ chơi nhau rất thân. Vì sợ đêm nay Minh công cất quân tiêu diệt thì người ấy chết mất, nên đến dặn nhỏ một lời, bảo hắn tìm đường thoát nạn.

Nhân hỏi chuyện Lưu Bang vào Quan Trung như thế nào, thì hắn nói:

- Lưu Bang thực không có tình ý gì cả, sở dĩ sai tướng giử cửa quan, bất quá phòng trộm giặc nhà Tần, chứ không dám cự với quân Sở. Kho tàng châu báu đều niêm phong lại, cung phi mỹ nữ không màng, bắt được vua Tần là Tử Anh vẫn không dám định đoạt, chỉ để đợi Lỗ Công. Tôi thiết nghĩ, nếu Lưu Bang không vào cửa quan trước thì bọn ta còn phải tốn biết bao nhiêu sức lực mà chưa dễ đã vào ngay được. Nay người ta có công lớn, mình lại nghe lời đứa tiểu nhân, chực hại người ta, thì còn gì là thiên đạo nữa ! Ngày mai Lưu Bang đến đây tạ tội, Lỗ Công nên lấy nghĩa mà đối xử thì mới được tiếng khen.

Hạng Vũ nghe xong, nói:

- Thúc phụ nói rất phải. Thực ra Lưu Bang cũng chưa có tội gì. Nếu ta giết e thiên hạ chê cười chăng ?

Phạm Tăng nói:

- Muốn mưu tmh đại sự nhiều lúc kẻ có tội vẫn phải khoan hồng, ngược lại, kẻ vô tội vẫn phải trừ bỏ. Tôi sở dĩ khuyên Minh công giết Lưu Bang vì thấy Lưu Bang sau này có thể tranh ngôi bá chủ với Minh công. Nay không trừ đi tất sau hối không kịp. Lão tướng nhà ta có lẽ đã mắc mưu Trương Lương rồi, xin Minh công đừng nghe.

Hạng Vũ do dự một lúc rồi nói:

- Giết một kẻ chưa có tội là trái lương tâm. Vả lại, muốn hại Bái Công thì thiếu gì cách cần chi phải lén đến cướp trại trong đêm khuya, uy danh ta bị tổn thương, xin tiên sinh nghĩ kế khác.

Phạm Tăng nói:

- Tôi xin hiến ba kế giết Bái Công. Ðiều cốt yếu Minh Công phải quả quyết mới làm được. Tôi biết Minh Công tánh nóng mà trực. Tánh ấy có hại cho nghiệp lớn.
Về Đầu Trang Go down
  • Trả lời chủ đề này

Bài gửi by Admin Wed Apr 22, 2015 6:17 am

Hán Sở tranh hùng Empty Re: Hán Sở tranh hùng

Admin
Admin
Administrator
Administrator

Tổng số bài gửi : 5122
Points : 8388
Reputation : 1360
Join date : 21/11/2014
Đến từ : Tp.HCM

https://ccxiqi.forumvi.com
Hồi 10

Yến Hồng Môn, Phàn Khoái cứu chủ

Nơi Hàm Dương, Hạng Vũ thị uy

Hạng Vũ nói:

- Xin tiên sinh cho biết ba kế ấy, tôi nguyện theo.

Phạm Tăng nói:

- Minh công phải thấy Lưu Bang là cái lo quan trọng đối với Minh công. Minh công sẽ không thể cùng Lưu Bang sống chung trong hoàn vũ. Thế thì việc giết Lưu Bang là cần thiết cho bản thân, sự nghiệp Minh Công sau này. Tôi có ba kế: Một là mời Lưu Bang đến Hồng Môn dự yến, trong tiệc đem việc ngăn cản nơi cửa quan ra trách rồi giết phứt đi, đó là thượng sách. Hai là sai quân đao phủ phục dưới trướng, chờ lúc Lưu Bang vào tiệc, hô quân đao phủ áp lại giết, nếu Minh công không nỡ xuống tay. Ðó là trung sách. Ba là sai người chuốc rượu cho Bái Công say rồi khiêu khích cho Bái Công thất lễ, bắt tội giết đi. Ðó là hạ sách.

Hạng Vũ nói:

- Ba kế ấy có thể làm được cả, ít ra cũng phải làm cho mọi người thấy Lưu Bang có tội đã.

Nói xong truyền chư tướng chuẩn bị đâu đó sẳn sàng, rồi sai người mang thư mời Bái Công đến Hồng Môn dự yến.

Bái Công tiếp được thư mở ra đọc, thư viết như sau:

"Lỗ Công Hạng Vũ kính thư Bái Công hiền huynh nhã giám.

Tôi cùng hiền huynh hợp lực đánh Tần, chịu lời ước của vua Hoài vương. May thay ! Hiền huynh kéo binh sang mé Tây, Tử Anh quy hàng, Quan Trung quy phục, nhà Tần bị diệt, giải phóng trăm họ, Công lao ấy thực to tát. Tôi lấy làm mừng, bày yến tiệc cùng hiền huynh chung vui, xin hiền huynh chiếu cố, để thỏa lòng mong ước - Hạng Vũ kính thư".

Bái Công xem thư xong, Trương Lương nói:

- Tiệc này không là tiệc vui, chính là mưu của Phạm Tang, ta chớ nên xem thường.

Tiêu Hà nói:

- Binh lực củ Hạng Vũ đang mạnh, nếu hắn cố hại thì ta khó chống cự nổi. Nay nên lựa một người ăn nói giỏi đến thoái thác, cốt làm cho Hạng Vũ đừng nghi chúng ta có ý chiếm đoạt uy quyền, rôi tìm lấy một Châu quận khác mà ở, chỉnh đốn binh mã, sau sẽ tính.

Lịch Sinh nói:

- Tôi xin lãnh nhiệm vụ thuyết khách ấy.

Trương Lương bàn:

- Kế của hai ông chưa phải là thượng sách. Xưa Nhủ Tử Tư bảo hộ vua Bình Vương yến hội nơi Lâm Ðồng, mười tám nước chư hầu phải kính phục. Lạn Tương Như đến hội ở Miên Trì, đem ngọc bích về nước Triệu, thiên hạ đến nay còn khen. Tôi tuy bất tài, nhưng quyết bảo vệ Minh công đến dự yến nơi Hồng Môn, để khỏi mất thể diện.

Bái Công nói:

- Nếu có tiên sinh phò tá thì ta vững lòng.

Tnrơng Lương liền sai người phúc đáp rằng: "Ngày mai sẽ đến phó yến ".

Phạm Tăng được tin, nói với Hạng Vũ:

- Ngày mai Bái Công đến, xin Minh công cứ y theo ba kế ấy mà làm, chớ do dự.

Ðoạn, sai Ðinh Công, Ung Sĩ làm tướng canh cửa, cấm không cho những người vô phận sự tự tiện ra vào.

Hôm sau, Bái Công đem một trăm khinh kỵ và năm tướng tâm phúc là Trương Lương, Phàn Khoái, Ngạn Hấp, Kỷ Tín, Ðằng Công đến phó hội Hồng Môn.

Vừa đến nơi, thấy một toán quân kéo đến, gươm giáo rợp trời, tiếng loa dậy đất, cầm đầu là tướng Anh Bố, cởi ngựa hô lớn:

- Phụng mệnh Lỗ Công đến rước Bái Công phó hội.

Bái Công quay lại hỏi Trương Lương:

- Tiên sinh nghĩ sao ? Lòng ta thấy hồ nghi lắm !

Trương Lương đáp:

- Xin Minh công cứ vững lòng tin, theo lời dặn của tôi mà làm.

Bái Công theo sau Anh Bố đến cửa quan, Trần Bình ra nghênh tiếp.

Nhìn vào trong thấy tinh kỳ la liệt, gươm giáo sáng ngời, chuông trống khua vang, chẳng khác vào một chốn pháp trường sắp đem tội nhân hành quyết.

Bái Công ngần ngại không dám đi, quay lại nói với Trương Lương:

- Lỗ Công dàn cảnh như vầy đâu phải thực tâm phó hội. Tiên sinh nghĩ sao ?

Trương Lương nói:

- Ðã đến đây, nếu lùi một bước là trúng kế địch. Xin Minh công đứng nơi đây, để tôi vào yết kiến Lỗ Công trước đã

Nói xong, Trương Lương bước đến trước . Ðinh Công đóng cửa dinh lại không cho vào.

Trương Lương nói:

- Nhờ tướng quân vào bẫm với Lỗ Công. Bái Công sai tôi là Tá Sĩ Trương Lương vào yết kiến.

Ðinh Công vào bẫm lại.

Hạng Vũ hỏi Phạm Tăng

- Thế nào là Tá sĩ.

Phạm Tăng nói:

- Người này ở nước Hàn, năm đời làm tướng nay theo phò tá Bái Công nên gọi là Tá Sĩ. Bái Công đem Trương Lương đến đây dụng ý thuyết từ xin Minh công giết quách Trương Lương để cho Bái Công mất một tay nương tựa

Hang Bá nghe nói giật mình can:

- Không nên ! Lỗ Công vào Hàm Dương, điều cốt yếu là phải thu phục nhân tâm, giành ưu thế cho rnình . Nếu vô cớ giết hiền sĩ thì ai còn khâm phục. Vả lại Trương Lương là bạn thân của tôi, tôi có thể dụ về bên Sở, tại sao giết đi.

Lỗ Công liền đòi Trương Lương vào.

Trương Lương thấy Hạng Vũ mặc giáp trụ, chống gươm ngồi trên trướng, mặt hầm hầm sát khí, liền nói:

- Tôi nghe Minh Vương trị thlên hạ chỉ khoe đức chứ không khoe võ, các bậc hiền nhân đối xử nhau dùng nghĩa chứ không dùng uy. Nay Minh công mở hội Hồng Môn, chung vui với chư hầu, tôi ngỡ đến đây được nghe đàn sáo, ca nhạc, chủ khách giao tiếp nhau với muôn ngàn hân hoan, ngờ đâu chỉ thấy gươm đao la liệt, giáp sĩ đứng song hàng, chiêng trống vang trời, một đoàn sát khí, khiến cho nhân tâm ngờ vực muốn trở về. Minh công chín trận được Chương Hàm, một tay phục thiên hạ, uy danh lừng lẫy ai mà chẳng biết, thế thì khoe cái uy dũng của mình chẳng có ích gì. Tôi thiết tưởng Minh công nên khoe cái đức của mình để cho thiên hạ thấy con nguời tài đức vẹn toàn, trăm họ tùng phục, như thế mới thật là đáng hào hùng trong thiên hạ vậy.

Hạng Vũ nghe nói đổi sắc mặt, truyền cho vũ sĩ lui ra một dặm, bỏ giáp trụ, mặc triều phục, rồi mời chư hầu vào dinh.

Ðinh Công lại rao lớn:

- Không ai được đem nhiều nhân mã, chỉ cho theo hầu một vài văn thần, vũ sĩ mà thôi.

Bái Công theo Trương Lương bước vào, khúm Núm dưới thềm, chắp tay nói:

- Lưu Bang xin vào hầu Minh công.

Hạng Vũ tái sắc, nói:

- Lưu tướng quân có ba tội, thế mà chưa biết sao ?

Bái Công nói:

- Bang là kẻ Ðình trưởng ở Huyện Bái, chúng nhân tôn lên để mộ quân đánh Tần. Phàm việc lớn nhỏ đều theo lệnh Minh công, thực chưa dám làm điếu gì trái phép.

Hạng Vũ nói:

- Tướng quân tự tiện tha cho hàng vương Tử Anh, không coi vương mệnh là gì, đó là một tội. Mua chuộc lòng người thiện cải pháp luật, đó là hai tội. Sai tướng giữ cửa quan không cho quân chư hầu vào, đó là ba tội. Có ba tội ấy sao lại chẳng biết ?

Bái Công ung dung đáp:

- Vua nhà Tần đầu hàng nếu Bang tôi giết đi mới chuyên quyền, nay tôi giữ lại chờ lệnh Minh công xét xử, thiết tưởng đó không phải là tội. Phép nhà Tần khắc khổ trăm họ lầm than, Bang tôi sớm đổi đi, đó chính là vì cái thịnh đức của Minh công đó. Thiên hạ sẽ nói rằng:

- Quân tiền khu mới đến Hàm Dương mà còn cho dân thọ ân như vậy, nếu NguyênSúy đến thì ơn huệ biết chừng nào. Còn như sai tướng giử cửa quan chẳng qua Bang tôi sợ dư đảng của nhà Tần nổi lên tác loạn, chứ dám đâu cản chư hầu. Kẻ thành tâm như thế mà bị chê trách, xin Minh công xét lại.

Hạng Vũ tuy nóng nảy, nhưng là kẻ cương trực, không nỡ giết người đã tùng phục mình, vả lại lời tưng bốc của Bái Công cũng làm cho Hạng Vũ khoái chí, nên Bái Công vừa nói dứt lời Hạng Vũ thay đổi sắc mặt, cầm tay Bái Công, nói:

- Vũ này không có lòng giận hiền huynh, chỉ vì có tên bộ tốt của hiền huynh là Tào Vô Thương đem lời dèm siểm nên mới sinh ra cớ sự.

Liền mời Bái Công ngồi. Các nước chư hầu đều sắp theo thứ lớp, an tọa. Phạm Tăng, Trương Lương, Hạng Bá được dự tiệc. Cung đàn nổi lên, bầu không khí thân mật lại trở về trong ly rượu nồng nàn.

Phạm Tăng thi kế thứ nhất không thành. Lại thấy Hạng Vũ không có ý hại Bái Công nên quân phục hai bên đều yên lặng.

Phạm Tăng đưa mắt nhìn Hạng Vũ nháy nhó, bảo thực hiện kế thứ hai, nhưng nháy đến ba lần mà Hạng Vũ vẫn bõ qua .

Phạm Tăng tức giận sai Trần Bình ra rót rượu, cốt làm cho Bái Công say rượu thất lễ mà giết đi.

Tuy nhiên, Trần Bình thấy Bái Công tướng mạo uy nghi, vẻ phượng mặt rồng, đem lòng cảm mến, nghĩ thầm:

- Bái Công không phải kẻ tầm thường, chiều theo ý Phạm Tăng hại người hiền đức là trấi đạo trời.

Nghĩ thế, Trần Bình rót rượu cho Bái Công thì ít,mà rót rượu cho Hạng Vũ thì nhiều. Nhờ đó, Bái Công khỏi say.

Phạm Tăng thấy ba kế không thành, than thầm:

- Ngày nay không giết được Lưu Bang tất di hại về sau.

Nghĩ rồi lui ra ngoài tìm cách mưu hại. Nhưng thơ thẩn mãi mà tính chưa ra kế.

Bỗng sau tường có tiếng hát, giọng hát nổi ìên một lúc một rõ dần. Hát rằng:

Tráng sĩ thanh gươm ấp mộng đời.

Công hầu khanh tướng chỉ trò chơi !

Gươm thiêng nhuộm máu say men rượu

Hồ hải tung hoành tít dặm khơi !

Ai người tri kỷ !

Nâng chén đầy vơi !

Cuộc cờ sẩy mấy buông lơi

Ăn năn thì đã muộn rồi còn chi ?

Phạm Tăng biết đó là giọng hát của tráng sĩ, chợt nghĩ ra một kế, lẩm bẩm:

- Ta có thể dùng người này giết Lưu Bang được.

Liền leo lên đầu tường, thì thấy người ấy là Hạng Trang, đồng hương với Hạng Vũ.

Phạm Tăng gọi Hạng Trang đến, kề tai nói nhỏ:

- Minh công tính cương trực, mà không quyết đoán. Tiệc Hồng Môn hôm nay mục đích giết Lưu Bang, ta đã bày ra ba kế nhưng Minh công không chịu dùng kế nào. Nay tráng sĩ vào trước tiệc làm lễ chúc thọ, xin múa gươm giúp vui, rồi thừa cơ giết Lưu Bang đi, công tráng sĩ chẳng nhỏ.

Hạng Trang vén áo, bước vào tiệc, nói:

- Trong tiệc không có gì vui, tôi xin múa gươm hầu các ngài uống rượu.

Nói xong, rút gươm ra múa, lăm lăm chỉ chực thừa miếng chém Bái Công.

Trương Lương thấy Hạng Trang múa gươm, liền đưa mắt nhìn Hạng Bá.

Hạng Bá hiểu ý, vội đứng dậy, rút gươm nói:

- Múa gươm phải múa đôi xem mới thú.

Hạng Vũ nói:

- Xin mời thúc phụ múa gươm với Hạng Trang cho vui.

Hạng Bá được dịp, liền đứng dậy, vung gươm múa.

Trong lúc múa thường lấy mình che cho Bái Công, Hạng Trang không sao chém được.

Hai người múa gươm một lúc. Hạng Bá lần lần yếu sức. Trương Lương thấy nguy cấp đến nơi, liền đứng dậy ra ngoài. Ðinh Công, Ung Sĩ ngăn lại, hỏi:

- Ngài ra ngoài làm gì ?

Trương Lương nói:

- Tôi xin ra ngoài lấy quốc bảo vào dâng.

Trần Bình vốn đã sẵn có cảm tình với Bái Công, thấy Ðinh Công cản Trương Lương, liền bước lại gần nói:

- Minh công truyền để cho Trương Lương ra ngoài có việc.

Ðinh Công tưởng thật, để cho Trương Lương ra ngoài.

Trương Lương ra nói với Phàn Khoái:

- Hạng Trang đang múa gươm mưu giết Minh công, việc rất gấp, tướng quân nên vào ngay để liều chết cứu Minh công mới được.

Phàn Khoái nghe nói hậm hực, xách gươm theo Trương Lương bước vào.

Trương Lương nói:

- Ðể tôi vào trước đã.

Ðoạn, rảo bước đi ngay. Ðinh Công thấy Trương Lương trở vào, hỏi:

- Quốc bảo đâu ?

Trương Lương giả vờ chỉ vào bọc, nói:

- Có đây rồi.

Vừa nói vừa lách mình đến trước tiệc, thấy Hạng Bá và Hạng Trang con đang múa kiếm, chưa thôi.

Phàn Khoái thấy Trương Lương đã vào bên trong liền chạy đến trước cửa dinh nói lớn:

- Tiệc Hồng Môn hôm nay quá vui mà kẻ tùy tùng không được ly rượu nào cả, Khoái tôi xin đến trước mặt Lỗ Công để xin một ít rượu thịt .

Nói rồi, cắp gươm, gạt bọn Ðinh Công chạy thẳng vào đến trước mặt Lỗ Công, trợn mắt nhìn, tóc dựng ngược lên.

Lỗ Công lấy làm lạ, hỏi:

- Tráng sĩ tên gì ?

Trương Lương đứng lên, bẩm:

- Ðó là quan Tham Táng của Bái Công tên Phàn Khoái.

Hạng Vũ hỏi:

- Nhà ngươi vào đây để làm gì ?

Phàn Khoái nói:

- Tôi nghe Minh công mở tiệc Hồng Môn, mừng nhà Tần tuyệt diệt, bất cứ lớn nhỏ ai ai cũng được cơm rượu no say, duy Khoái này từ sớm đến giờ chưa được bữa nào, nên lại đây xin Minh Công một bữa chén.

Hạng Vũ sai rót một chén rượu lớn đưa cho Phàn Khoái, Phàn Khoái tiếp lấy uống cạn. Hạng Vũ hỏi:

- Tráng sĩ muốn uống nữa chăng ?

Phàn Khoái nói:

- Dẫu chết tôi còn chưa sợ thì sợ gì chén rượu mà không uống.

Hạng Vũ cười lớn hỏi:

- Nhà ngươi muốn vì ai mà chết ?

Phàn Khoái đáp:

- Tôi chết vì chúa tôi. Thiết tưởng, chúa tôi đánh vỡ nhà Tần, vào Hàm Dương, của báu không tham, mỹ nữ không màng, lui binh về Bái Thượng để đợi lệnh tướng công. Khó nhọc như thế, công lao như thế mà có kẻ lăm le ám hại. Hành động ấy chẳng khác hành động đen tối của nhà Tần trước đây, còn ai khâm phục. Tôi phận hèn, nhưng lương tâm không phải gỗ đá, thấy kẻ hàm oan không đau lòng ! Kìa, như hai kẻ đang múa gươm kia cốt muốn giết chúa tôi đó. Tôi đến đây liều chết cứu chúa chứ đâu phải xin vài chén rượu của tướng công ?

Hạng Vũ nghe nói cũng chột dạ, truyền Hạng Trang thôi múa gươm, và khen:

- Phàn Khoái cương trực, đáng là tay vũ dũng.

Bái Công thấy Hạng Vũ đã say, lẻn ra ngoài cửa dinh. Ung Sĩ giữ lại không cho đi, Trương Lương chạy ra nói:

- Lỗ Công truyền lệnh chư hầu ai không uống được rượu nữa thì ra về, cớ sao tướng quân ngăn cản.

Trần Bình cũng chạy đến, xen vào:

- Minh công truyền cho Bái Công lui ra !

Ðinh Công và Ung Sĩ nghe Trần Bình nói, mới để cho Bái Công ra ngoài.

Bái Công ra khỏi cửa dinh thì đã có các bộ tướng Ngạn Hấp, Kỷ Tín nghênh tiếp, phò về Bái Thượng.

Phạm Tăng thấy kế không thành, buồn bã bỏ đi nằm, vì vậy Bái Công mới thoát nạn được.

Người sau có thơ nói đến hội Hồng Môn:

Chén rượu Hồng Môn vạn cổ truyền,

Anh hùng mắc giữa lưới hùm thiêng

Một lời khuất phục, toàn sinh mệnh

Vinh nhục bao nài cảnh vũ yên.

Trương Lương đưa Bái Công đi khỏi rồi, dừng chân đứng lại, nghe sau tường có người gõ vào thanh gươm hát:

Hùm đã về non

Ðất trời thênh thênh.

Trường giang sóng vỗ rập rềnh,

Làn mây rực đỏ, ác lên chói ngời.

Hát xong lại có tiếng cười nhạt.

Trương Lương quay trông người ấy, thấv sắc mặt hiện ra nửa trắng nửa vàng, tinh thần thanh sảng, liền hỏi:

- Tráng sĩ cười gì thế ?

Người ấy đáp:

- Phạm Tăng phí tâm cơ, Trương Lương biết chân chúa, ngày nay thoát cửa Hồng, ngày mai định thiên hạ.

Nói xong đi mất.

Trương Lương tấm tắc khen:

- Trong thiên hạ còn lắm bậc kỳ sĩ !!!

Liền rảo bước, định tìm hỏi tông tích người, bỗng cố người đến báo:

- Lỗ Công đã tỉnh rượu, đang sai tìm Bái Công.

Trương Lương vội vả trở lại thưa với Hạng Vũ:

- Bái Công không uống được rượu nữa, đương khi Minh Công say người không dám kinh động , đã trộm về Bái Thượng, để Lương ở lại đây từ tạ.

Hạng Vũ nổi giận nói:

- Lưu Bang không từ tạ mà bỏ đi thật vô lễ. Nhà ngươi còn kiếm lời che chở sao ?

Trương Lương thấy Hạng Vũ giận, toan tìm lời trấn an, thì Phạm Tăng bước tới nói:

- Lưu Bang tuy ăn nói nhỏ nhẹ, song kỳ thật là kẻ gian hùng. Lưu Bang trở về Bái Thượng một phần lớn do kế của Trương Lương, xin Minh công bắt Trương Lương trị tội mới xong.

Hạng Vũ nạt kẻ tả hữu, bảo đem Trương Lương ra chém.

Trương Lương kêu lớn:

- Minh công chém tôi tức là hư nghiệp Bá vương rồi.

Hạng Vũ hỏi:

- Chém nhà ngươi thì hại gì sự nghiệp ta ?

Trương Lương nói:

- Có hai điều bất lợi. Một là chư hầu sê chê Minh Công vì không giết được Lưu Bang nên tức giận giết Trương Lương. Hơn nữa uy danh Minh công đang mạnh mà giết một kẻ chịu phục tùng mình như Lưu Bang thì sao khỏi bị chê là hẹp hòi, hèn nhát. Hai là Lưu Bang hiện nay đang giữ ngọc tỷ, nếu Minh công giết tôi, Lưu Bang tất sợ hãi chạy sang nước khác, đem ngọc tỷ dâng cho một người nào, thì Minh công khó đoạt nghiệp Bá vương sau nầy.

Hạng Vũ khen:

- Lời Trương Lương rất phải. Suýt nữa ta đã phạm lầm, hư việc lớn, mang tlếng xấu với thiên hạ. Ta nay anh hùng trăm vạn, hổ tướng ngàn viên, Lưu Bang làm gì được ta mà sợ.

Nói xong, gọi Trương Lương lại gần, bảo:

- Ngươi hãy trở về Bái Thượng đem ấn ngọc tỷ và đồ châu báu lại đây. Nếu sai lời ta sẽ đem quân đến Bái Thượng phân thây muôn mảnh.

Trương Lương vâng lời, bái tạ trở về, thuật chuyện lại cho Bái Công nghe.

Bái Công nói:

- Thoát được miêng hùm thật nhờ mưu trí của tiên sinh.

Nói xong, cho đòi Tào Vô Thương đến mắng nhiếc, rồi chém đầu làm gương cho kẻ khác.

Trương Lương nói:.

- Nay Lỗ Công đòi phải đem báu vật và ngọc tỷ đến dâng, ta không thể cưỡng lệnh.

Bái Công nói:

- Ngọc tỷ là báu vật truyền quốc, sao lại nhường cho ai !

Trương Lương nói ?

- Ðược thiên hạ là ở đức chớ không phải ở ngọc tỷ. Nếu ta trái lời, Lỗ Công đem quân đến đánh, ta làm sao giữ nổi. Hy sinh ngọc tỷ để bảo vệ lực lượng mưu tính đại sự là hơn. Một đàng giữ ngọc tỷ mà mất thiên hạ, một đàng bỏ ngọc tỷ mà được thiên hạ.

Bái Công khen phải, hôm sau sai Trương Lương đem ngọc tỷ cùng châu báu đến Hồng Môn dâng cho Lỗ Công và bẩm:

- Bái Công dự tiệc quá say, đến nay vẫn chưa dậy nổi. Sợ thất tín nên sai tôi đến đây dâng đồ cống hiến, xin Minh công thu nhận cho.

Hạng Vũ thấy ấn ngọc cùng những châu báu bày la liệt trên bàn, hoa cả mắt, ngắm nghía hồi lâu, rồi cầm từng món lên xem, món nào cũng rực rỡ muôn ngàn ánh sáng.

Hạng Vũ thấy chén ngọc, nhấp nháy như ánh sao, thích chí cười ìớn, trao cho Phạm Tăng và nói:

- Vật quý này xin kính biếu Tiên sinh.

Phạm Tăng cầm lấy, giận dữ ném xuống đất, và rút kiếm chặt ra từng mảnh, nói:

- Thôi ! Việc thiên hạ hỏng mất rồi ! Chúng ta sẽ chết về tay Bái Công cả, vật quý mà chi !

Hạng Vũ biến sắc, mắng lớn:

- Ôi chao ! Cái lão này vô lễ đến thế ! Cổ nhân có nói: "Vua cho thức ăn phải nếm trước, vua cho vật sông phải để mà nuôi". Huống chi cái chén ngọc quý như vậy ta ban cho, lão đã không tạ ơn còn đập nát trước mặt ta như vậy .

Phạm Tăng nói:

- Xưa vua Huệ Vương nước Vệ chỉ biết quý ngọc Minh Châu, vua U Vương nước Tề cười và nói rằng: Viên ngọc của ông dầu tốt đến đâu cũng chỉ rọi sáng được trăm cỗ xe mà thôi, còn người hiền thần của tôi có thể soi sáng được muôn dặm, ấy vậy, cổ nhân trọng hiền nhân coi thường vật quý. Tôi nay chỉ muốn lấy đầu Bái Công để bình thiên hạ, còn vật quí không màng. Minh công không nghe lời tôi, để lỡ cơ hội, tôi vì quá bực tức chứ đâu phải khinh thường tấm lòng ưu ái của Minh Công.

Hạng Vũ cười lớn, nói:

- Bái Công là đứa đê hèn, làm gì nên việc mà tiên sinh lo ngại đến thế.

Phạm Tăng nói:

- Xin Minh Công chớ coi thường mà ăn năn không kịp.

Hạng Vũ quay lại nói với Trương Lương:

- Bái Công là một đứa tiểu nhân, không làm gì nên chuyện, nhà ngươi cứ ở đây theo ta.

Phạm Tăng nói:

- Minh Công trước kia muốn giết Trương Lương, nay lại muốn dùng, thế thì khác nào nuôi ong tay áo.

Hạng Vũ nói:

- Tiên sinh khéo lo xa, Trương Lương chỉ là một gã thư sinh dẫu ở gần ta lại làm gì ta đặng.

Rồi đó, Hạng Vũ không nghe lời Phạm Tăng, dùng Trương Lương dưới tướng.

Trương Lương chỉ bấm bụng cười thầm !

Một hôm, Lỗ Công bàn với chư tướng:

- Ðất Quan Trung đã hạ, ấn ngọc tỷ đã về tay, việc thiên hạ tạm yên, duy có Tần Vương, Tử Anh chưa thấy mặt, làm sao chư hầu hàng phục. Bây giờ phải sai người mang thư sang Bái Công, đòi Tử Anh lại đây giết đi mới xong việc được.

Bàn xong, viết thư sai người đem đưa cho Bái Công.

Thư rằng:

"Tôi và tướng công cùng đánh Tần để cứu muôn dân ra khỏi vòng nước lửa. Nay tôi vào Hàm Dương đã mười tháng trời mà chưa thấy mặt Tử Anh ? Có lẽ tướng công muốn giấu nó để mưu việc gì khác chăng ? Nếu quả thế tôi cùng tướng công không phải cùng một nhiệm vụ nữa ! "

Bái Công xem thư xong, họp các tướng, bàn luận:

- Hạng Vũ nay đã trái ước muốn làm vua ở Hàm Dương. Nay lại viết thư đòi Tử Anh chắc là muốn mạo nhận công mình để phục mệnh Hoài Vương, và che miệng chư hầu. Ta không trả Tử Anh e nó động binh, bằng trả Tử Anh thì trái với ý nguyện. Vậy phải tính sao bây giờ ?

Chư tướng đều bàn:

- Cái thế Hạng Vũ mạnh lắm, chúng ta không thể cãi mệnh được. Cứ giao Tử Anh cho hắn. Nếu hắn giết đi, thiên hạ càng thấy rõ đức khoan hồng của Minh Công.

Bái Công theo lời, liền gọi Tử Anh đến, nói:

- Trước kia ngươi dốc lòng quy thuận, ta không nỡ giết, không ngờ nay Lỗ Công trái lời ước, muốn làm vua nước Quan Trung, đưa thư đến đòi bắt ngươi. Ngươi nên đem các đồ châu báu và gái đẹp đến dâng cho Lỗ Công, họa may ông ta vì tham sắc mà tha chết chăng. Thôi, ngươi nên đi ngay đừng chậm trễ.

Tử Anh khóc rống lên, nói trong nghẹn ngào:

- Chúng tôi gặp cơn ly loạn tưởng hàng Minh Công được an thân, nay lại phải sang Lỗ Công, chẳng biết có toàn mạng chăng ?

Bấy giờ các bô lão trong vùng hay tin đều đến than thở.

Bái Công nói:

- Uy lực của Lỗ Công vang lừng trong thiên hạ còn ai dám trái mạng nữa. Các người chớ lưu luyến tôi, lỡ Lỗ Công hay được tội chẳng nhỏ.

Dân chúng nghe nói ai cũng cảm động.

Tử Anh vào Chỉ Ðạo đầu hàng Lỗ Công.

Lỗ Công trông thấy Tử Anh đầu bịt khăn trắng, mình mặc áo sô, miệng ngặm biểu hàng trông rất khổ não, liền cho vào, lấy biểu xem.

Tờ biểu như sau:

"Cháu Thủy Hoàng, con Phù Tô, vua Tam Thế nhà Tần, Tử Anh cúi đầu dâng biểu:

Trộm nghĩ:

Nhà Tần tôi thất lộc, hào kiệt nỗi lên. Bảy miếu khói lạnh hương tàn, bốn bề dầu sôi lửa đỏ.

Lòng người đã mất thế nước chẳng còn. Nay Minh Công cờ trở sang tây, sáu nước qui phục, vung gươm sang Bắc, muôn dân vui lòng. Thần uy sấm dậy vang trời. ân đức mưa nhuần khí hạ. Tử Anh này đâu dám cải mạng làm nhọc uy linh, chỉ mong được tồn sinh giữ gìn hương khói. Vua Thang Dung con cháu nhà Hạ, sáu trăm năm cơ nghiệp vững bền, vua Vũ tha con cháu nhà Ân tám trăm năm cơ đồ thịnh trị.

Nay Minh Công đã diệt nhà Tần, xin lấy lượng Ân Chu tỏ lòng nhân đức. Ðược thế, Tử Anh này đến chết chẳng dám quên ơn, mấy lời kính dâng, muôn phần sợ hãi. Tử Anh kính biểu"

Hạng Vũ xem biểu xong, nói:

- Xưa tiên đế nhà ngươi nuốt sống sáu nước, làm hại muôn dân, để tội lại cho nhà ngươi. Bây giờ nhà ngươi đền tội là đáng lắm rồi, còn kêu ca gì nữa.

Tử Anh thản nhiên đáp:

- Diệt sáu nước là việc của tổ tiên tôi, riêng tôi có tội tình gì ? Tuy nhiên, Minh công bắt tôi phải chết tôi cũng không hề dám oán hận. Dân chúng ở Hàm Dương lâu nay sống trong chính thể khắt khe của các tiên vương tôi, nay xin ngài lấy đức ban ân, để trăm họ được sống yên vui, thì dẫu tôi có xuống suối vàng cũng cảm nghĩa.

Tử Anh vừa nói đến đấy, Hạng Vũ đã truyền quân khai đao ! ôi, Tử Anh là người hiền đức, một trái ngọt trong cội chua, mới làm vua có 43 ngày mà phải đền tội ác của tiền nhân.

Dân Tần thấy Tử Anh bị chết, thương xót vô cùng, oán trách hành động khắt khe của Hạng Vũ.

Hạng Vũ thấy lòng dân không phục mình, truyền quân do thám hễ người nào có ý bất mãn thì bắt giết lập tức.
Về Đầu Trang Go down
  • Trả lời chủ đề này

Bài gửi by Admin Wed Apr 22, 2015 6:18 am

Hán Sở tranh hùng Empty Re: Hán Sở tranh hùng

Admin
Admin
Administrator
Administrator

Tổng số bài gửi : 5122
Points : 8388
Reputation : 1360
Join date : 21/11/2014
Đến từ : Tp.HCM

https://ccxiqi.forumvi.com
Hồi 11

Giận Hoài Vương, Hạng Vũ tự lập

Nuôi chí lớn Bái Công giữ mình

Phạm Tăng thấy Hạng Vũ mỗi ngày mỗi nóng tính, đem lời bàn:

- Trước kia Lưu Bang vào Hàm Dương không lấy của dân một mảy, đem lời hiểu dụ, bỏ hết các hình luật nghiêm nhặt, khiến dân một lòng cảm mến. Nay Minh công nóng tính, xem thường sinh mệnh của dân, tôi e lại sa vào vết xe của nhà Tần thuở nọ.

Hạng Vũ nói:

- Ta đem quân đánh Tần, Tử Anh là vua Tần sao lại chẳng giết ? Còn như dân Hàm Dương phản nghịch, tỏ ý oán hận ta, nếu không giết ngày sau di lụy.

Phạm Tăng nói:

- Ông Lỗ Công ngày xưa giết một cung nữ vô tội mà mắc chín năm đại loạn. Vua Cảnh Công giận giết một cung phi mà địa chấn ba dặm. Ấy vậy, sự hàm oan của con người có ảnh hưởng đến vũ trụ chẳng nhỏ. Nay mây sầu phủ đầy trời, khí oan kín đất, chính là vì Minh công đã giết oan Tử Anh đó. Nếu giờ lại giết nhân dân nữa e tổn thương hòa khí, xin Minh công xét lại.

Trong lúc Phạm Tăng đang tìm lời khuyên Hạng Vũ thì dân chúng Hàm Dương vì uất ức, mỗi lúc một xôn xao tiếng nguyền rủa, tiếng than oán không dứt.

Hạng Vũ không thể nén giận được, truyền Anh Bố đem quân vào thành bắt tôn tộc nhà Tần giết hơn 800 người, và họ hàng quần thần giết hơn 4.600 người.

Thành Hàm Dương trong phút chốc máu loang ngập đất, thây chất thành gò, đường sá vắng tanh, cửa nhà bỏ trống, thật là một thảm họa đau thương !

Hạng Vũ chưa nguôi giận, còn muốn giết một số nhân dân ngoại thành nữa. Phạm Tăng rơi lệ, can:

- Ðời vua Thang trời làm đại hạn, vua Thang đem thân mình chiu khổ cực cầu đạo ở Tam Lâm, lại kiểm điểm hành động để tự trách mình. Lòng thành thấu đến trời, mỗi được mưa nhuần gió thuận. Ấy, vua Thang biết bỏ mình cứu dân như thế nên sự nghiệp vững bền. Nay dân Tần trải bao nhiêu cay đắng, nhưng mong Minh công đến giải phóng đem lại an vui, thế mà Minh công lại giết hại, thì có ai phục ?

Hạng Vũ thấy Phạm Tăng hết sức khổ gián lòng cũng nguôi ngoại, truyền thôi chém giết.

Ðoạn kéo quân đến Tần cung, thấy cung điện nguy nga, lâu đài tráng lệ, bất giác thở dài than:

- Nhà Tần phú quí đến thế này, mà không giữ được đáng tiếc !

Phạm Tăng nhân lời nói ấy tỏ ra vẻ chau buồn nói:

- Ấy bởi nhà Tần vô đạo, chém giết lương dân, không nghe lời khổ gián nên mới mất cơ nghiệp.

Hạng Vũ nín lặng không nói gì cả. Tối hôm ấy, sai người cầm đèn đến mời Phạm Tăng vào tư dinh bàn việc.

Phạm Tăng đến Hạng Vũ nói:

- Nay ta đã vào Hàm Dương lấy được ngọc tỷ, giết được Từ Anh trừ được nhà Tần thế là mọi việc đã xong, bây giờ cần có một minh quân đứng ra trị dân, nếu để nước không vua lâu ngày bất tiện. Ta muốn lên ngôi vua đất Quan Trung này, tiên sinh nghĩ có nên chăng ?

Phạm Tăng nói:

- Chư hầu sở dĩ theo Minh công là họ cũng muốn được phong quan, thưởng tước, để vui cảnh giàu sang. Minh công nghĩ như vậy rất hợp lòng người. Nhưng trước hết phải bẩm lệnh Hoài Vương, xin một chiếu thư rồi sẽ tức vị, như thế thiên hạ mới phục.

Hạng Vũ y lời sai Hạng Bá vào Bành Thành thỉnh mệnh Hoài Vương.

Hạng Bá vào yết kiến, Hoài Vương phán:

- Ta đã có lời ước rồi, cần gì phải thỉnh mệnh.

Hạng Bá tâu:

- Tuy Bái Công vào được Hàm Dương trước, song Bái Công sức yếu thế cô, còn Lỗ Công uy quyền rất trọng, xin bệ hạ cứ cho Lỗ Công làm vua thì đất Quan Trung mới trấn an được

Hoài Vương nói.

- Không được ! Nhân vô tín bất lập. Một lời nói của kẻ tầm thường mà còn phải tôn trọng thay huống hồ một ông vua. Ta không thể thất tín với thiên hạ. Nhà ngươi về nói với Lỗ Công phải theo lời ước cũ.

Hạng Bá trở về nói với Lỗ Công:

- Hoài Vương bắt phải theo lời ước, nhất định không hạ chiếu. Tôi cầu khẩn hai ba lần vẫn không được.

Hạng Vũ nổi giận nói:

- Hoài vương do ta lập nên, nghiêẽm nhiên được ngôi thiên tử. Ðã không xét công trạng ta, cố chấp như vậy thật là kẻ bất nghĩa. Công bình định thiên hạ do tay ta, cần gì phải cầu khẩn với ai.

Liền chọn ngày tự lập làm vua.

Phạm Tăng nói:

- Việc tức vị phải hợp với cổ kim, không phải việc dễ. Trương Lương là người học rộng, am hiểu lễ nghi có thể biết được, xin Minh công cho đòi Trương Lương đến, nếu hắn nói đúng theo lẽ phải tức là hắn trung thành, bằng sai tức là giả dối, gạt Minh công mang tiếng với thiên hạ đó. Minh công nên giết đi để trừ hậu hoạn.

Hạng Vũ toan sai người sang đòi Trương Lương thì vừa lúc Trương Lương ở Bái Thượng về, xin vào yết kiến.

Hạng Vũ nói:

- Nay ta muốn làm vua Quan Trung nhưng chẳng biết lập tôn hiệu thế nào cho phải . Nhà ngươi là người học rộng, dòng họ làm tướng năm đời nước Hàn, vậy ngươi thử nói ta nghe.

Trương Lương nghĩ thầm:

- Ðây là mưu Phạm Tăng định gieo vạ cho ta. Nếu ta nói thẳng tất Lỗ Công ghét, chi bằng đưa những tôn hiệu của các đời Vua trước, để Lỗ Công muốn chọn thế nào tùy ý.

Nghĩ rồi ôn tồn đáp:

- Tôn hiệu rất nhiều, tôi xin kễ qua để Minh công chọn. Xưa, sau đời Tam Hoàng thì có Ngũ Ðế, đó là Thiếu Hiệu, Xuyên Húc, Ðế Cốc, Ðế Nghiêu, Ðế Thuẫn.

Thiếu Hiệu tên là Chiết tự là Thanh Dương đóng đô ở Khúc Phụ, làm vua được 100 năm. Xuyên Húc, cháu vua

Hoàng Ðế, họ Cơ giúp vua Thiếu Hiệu trị thiên hạ, hai mươi tuổi mới lên ngôi, làm vua được 78 năm. Ðế Cốc, cũng họ Cơ, lên ngôi ở đất Bạc, làm vua 70 năm - Ðế Nghiêu họ Y Kỳ, mẹ là Khánh Ðô, hoài thai 14 tháng, sinh ra ông Nghiêu ở đất Ðan Lăng, hiệu là Phong Huân, 14 tuổi giúp vua Ðế Chi, phong làm vua ở đất Ðường, 20 tuổi mới lên ngôi hoàng đế làm vua được 50 năm - Ðế Thuẫn, dòng dõi vua Xuyên Húc, bà mẹ cảm cái hình cầu vồng mà sinh ra nơi đất Diêu, nên lấy họ Diêu, tự là Ðô Quân giúp vua Nghiêu trị thiên hạ. Sau nối ngôi xưng Ðế vị, thọ 100 tuổi. Ðó là tôn hiệu của 5 đời đế, gọi là Ngũ Ðế. Minh công muốn dùng tôn hiệu ấy chăng ?

Hạng Vũ tự nghĩ:

- Ngũ đế là bậc nhân đức, dùng tình thương trang trải giữa hoàn vũ, ta khó sánh kịp. Vả lại, ta vừa giết Tử Anh, dùng bạo lực trấn áp nhân dân, đế hiệu e không hợp.

Liền hỏi lại Trương Lương:

- Còn tôn hiệu nào khác chăng ?

Trương Lương đáp:

- Sau năm đời đế thì có tam vương, tức là: nhà Hạ, nhà Thương, nhà Châu - vua Hạ Vũ họ Tự tên Cao Mật sinh trưởng ở Tây Thương, vua Nghiêu dùng làm Tư Không, nối cha là ông Cổn, giữ việc trị thủy. Ðóng đô ở An ấp, thọ 100 tuổi truyền được 19 đời, cộng 432 năm.

Nhà Ân là dòng dõi vua Ðế Cốc, họ Cơ tên Lý, tức là vua Thành Thang, đuổi vua Kiệt ra Nam Sào lên ngôi thiên tử, thọ 100 tuổi, truyền 31 đời cộng 629 năm - vua Văn Vương (nhà Châu) nhân vua Trụ (nhà Thương) vô đạo sửa chính đức, thu nhân tâm, sau vua Vũ nối nghiệp, bốn năm chinh phạt, giết vua Trụ, làm thiên tử, thọ 93 tuổi, cộng 867 năm. Ðó là đời tam vương, tu nhân tích đức Minh công muốn dùng tôn hiệu ấy chăng ?

Hạng Vũ nói:

- Hiệu vương thì ta có thể xưng được. Song dưới hiệu vương còn có tôn hiệu nào khác chăng ?

Trương Lương nói:

- Dưới tam vương thì có ngũ Bá, tức là: Tề Hoàn công, Tống Trương Công, Tần Mục Công, Tấn Văn Công, Sở Trang Vương. Năm đời Bá đều vì thiên hạ trừ tàn bạo, gây một uy lực to lớn, bá tánh đều tùng phục. Minh công dụng tôn hiệu ấy được chăng ?

Hạng Vũ suy nghĩ một lúc rồi nói:

- Vương hiệu tuy hợp với cổ mà không hợp với kim, Bá hiệu thì hợp với kim lại không hợp với cổ. Muốn cho cổ kim hợp nhất ta lấy cả hai tôn hiệu, xưng là "Bá Vương". Ta vốn sinh ở đất Sở, từ sông Hoài sang phía Bắc, là địa phận Tây Sở, vậy từ nay ta xưng là Tây Sở Bá Vương.

Phạm Tăng vội can:

- Mình công nên xưng Vương hiệu và bỏ Bá hiệu đi. Bá hiệu các đời vua không đời nào được vững bền. Ðại Bá chỉ được năm đời, còn Tiểu Bá chỉ được ba đời. Xin chớ nghe lời Trương Vương sàm tấu.

Hạng Vũ nói:

- Năm đời Bá làm vua như thế kể cũng lâu dài. Công việc làm của ta chẳng những hợp với Tam Vương, mà còn đúng ý với Ngũ Bá nữa Thế thì xưng Bá Vương là phải. Tôn hiệu ấy do ta lựa chọn, Trương Lương chỉ là kẻ trình bày cho ta biết đó thôi.

Nói xong, trọng thưởng Trương Lương, Chọn ngày lành tháng tốt lên ngôi, xưng hiệu Tây Sở Bá Vương cai trị 9 quận nước Sở, đóng đô ở Bành Thành, tôn Hoài Vương lên làm Nghĩa Ðế, thiên sang Giang Nam.

Công việc xong, Bá Vương muốn xuất kho nhà Tần để ban thưởng quân sĩ, nhưng khi quân Bái Công vào Hàm Dương đã chuyển đi hết sạch, nay kho tàng đều trống rỗng, liền hỏi Phạm Tăng:

- Tướng sĩ theo ta đã lâu nay muốn thù lao lấy đâu làm việc ấy ?

Phạm Tăng nói:

- Việc ấy không khó, Bái Công vào Hàm Dương trước của cải ở đâu tất biết. Xin hỏi Bái Công thì rõ.

Bá Vương theo lời, sai người đi vời Bái Công.

Trương Lương hay tin, cấp tốc biên thư mật gởi cho Bái Công nói:

- Minh công nên vào yết kiến Bá Vương, hễ Bá Vương có hỏi đến lương tiên, xin cứ chỉ cho Lương này.

Bái Công vào yết kiến, Bá Vương hỏi:

- Nhà Tần giàu có bội phần, tướng công vào Hàm Dương trước có biết của cải để đâu chăng ?

Bái Công nói:

- Tôi mới đến, công việc bộn bề,chưa hề xét đến kho tàng xin đại vương hỏi Trương Lương mới biết được.

Bá Vương tức giận cho đòi Trương Lương đến trách:

- Nhà ngươi biết kho tàng nhà Tần, cớ sao không nói cho ta biết ?

Trương Lương nói:

- Tâu đại vương, đại vương chưa hỏi đến, tôi đâu dám thưa. Cứ như nhà Tần, của cải tích trữ từ đời Hiếu vương đến nay kễ trong thiên hạ không đâu bằng. Tuy nhiên, đến đời Tần Thủy Hoàng, lấy ngân quỹ ra sửa sang cung điện ở Ly Sơn, của cải ấy hao quá nửa. Sau đó, lại để vào trong mộ Tần Thủy hoàng rất nhiều, vì vậy mà hiện nay kho tàng trống rỗng.

Bá Vương ngẫm nghĩ một lúc rồi hỏi Phạm Tăng:

- Của cải để trong mộ Tần Thủy Hoàng thì ta cứ đào lên lấy, để ban thưởng quân sĩ.

Phạm Tăng nói:

- Mộ Tần Thủy Hoàng chẳng qua bài trí những đồ chơi thường nhật, làm gì có của cải.

Trương Lương mỉm cười nói:

- Quân sư lầm rồi ! Mộ Tần Thủy Hoàng chu vi chín dậm, cao đến năm mươi thước, lấy châu ngọc kế làm ngôi sao, lấy thủy ngân giả làm sông nước, lấy vàng bạc xây thành quách, lấy bách bảo làm đồ ngự thiện, bắt hơn vài trăm cung nữ chôn sống theo. Bao nhiêu của báu trong nước như san hô mã não phỉ thúy, lưu ly đều chất thành núi giả, ban đêm bảo khí trong mộ bốc lên như ánh trăng.

Bá vương truyền quân sĩ đến quật mộ Thủy Hoàng ngay, Phạm Tăng can:

- Thủy Hoàng tuy vô đạo, nhưng đó cũng là ngôi mộ của một vị đế vương, nay vô cớ quật lên, khác chi là lối cưóp mả, chớ nên làm thế.

Bá vương nói:

- Thủy Hoàng tàn bạo, gồm thâu sáu nước, vơ vét của thiên hạ đến tận xương tủy, ác hơn Kiệt, Trụ, đốt sách vỡ, chôn học trò, tội chất đầy trời. Ta đào mả Thủy Hoàng cốt vì dân trả oán, cần gì phải có của cải.

Ngày hôm sau, Bá Vương dẫn quân lên núi Ly Sơn. Cảnh vật trang nghiêm, muôn màu rực rỡ. Rừng tùng bách trải màu xanh mơn mởn, cung điện nguy nga lỏng bóng đài gương. Thềm lan quì ngựa đá, đường ngự uốn cầu vòng, thật là một cảnh bồng lai trong cõi thế.

Bá Vương tấm tắc khen thầm:

- Công trình kiến trúc tinh vi, bàn tay nhân tạo đúc nên cảnh vật. Thế này thì hết cả kho tàng, kiệt sức nhân dân là phải lắm.

Một lời ban lệnh, ngàn nhát búa vang động, cát bụi bay mịt mù, chim chóc giật mình tua tủa lượn vòng trong không gian như luyến tiếc nơi tổ ấm. Quân sĩ đào đến ba ngày mà chưa thấy chính huyệt.

Bá Vương treo bảng truyền lệnh ai biết được chính huyệt sẽ được ban thưởng.

Bỗng có một người đến tâu:

- Chính huyệt của Thủy Hoàng chỉ riêng hạ thần dược biết mà thôi.

Bá Vương quay lại, thấy người ấy là Anh Bố, mừng rỡ hỏi:

- Sao nhà ngươi lại biết được ?

Anh Bố tâu:

- Khi trước tôi đem phu đi làm đốc công, coi ngôi mộ này, sau đó các dân phu đều bị Thủy Hoàng bắt giết hết, tôi may trốn thoát mới biết được.

Bá Vương truyền Anh Bố đem quân đi đào.

Ðào từ đường chính Bắc cho đến đường chính Nam dài hơn một trượng mới thấy một tiền phòng chu vi rộng tám thước. Trong tiền phòng lót bằng đá hoa, trần kết gấm, chính giữa một con đường chạy thẳng vào một khung cửa bằng cẩm thạch, hai bên đứng la liệt các lão thần, chạm bằng mã não, mặc triêu phục, cầm hốt, mang hia đứng chầu.

Anh Bố dàn quân tiến đến phá tấm cửa đá. Tiếng dội thấu đến hai dặm.

Cảnh cửa đá tung ra để lo một căn phòng rộng, chính giữa một tấm bia rất lớn chạm chín con rồng, đang giương nanh múa vuốt. Sau tấm bia là một cái lầu, cũng xây bằng đá, bốn phía vách tường kín mít tuyệt nhiên không có cửa vào.

Quân sĩ ngơ ngác, không biết đi vào đâu nữa nữa.

Bố nói:

- Các người hãy quật cái bia ấy xuống tất nhiên sẽ có đường đi.

Thật vậy qua một lúc hì hục, quân sĩ đập vỡ bia đá, tức thì tám cánh cửa của thạch lâu mở ra, để lộ bên trong thành quách ngổn ngang, cung vàng điện ngọc, chẳng khác nào một đền vua trên mặt đất.

Cứ theo con đường nơi chánh điện đi thẳng vào, thì hai bên là tam cung lục viện, chính giữa là nhà để linh cữu, đâu đâu cũng chạm trổ toàn là trân châu, ngọc bích, sáng rực như ban ngày. Tuy ở dưới đường hầm nhưng ánh sáng không thiếu.

Anh Bố truyền đập các bờ thành lấy vàng bạc rồi khuân những bảo vật lên.

Bá Vương muốn đập linh cửu của Thủy Hoàng ra, Anh Bố nói:

- Thủy Hoàng bình sanh làm điều ác, sợ sau này có người quật mồ, phá xác nên đề phòng rất kỹ. Linh cữu làm bằng đá, trong có chứa rất nhiều tên sắt, thuốc nổ, nếu đập vỡ, cả đám quân sĩ vào đây đều phải chết hết. Chi bằng cứ để yên như thế lấp lại là hơn.

Bá Vương y lời, truyền khuân hết kim ngân châu báu lên mặt đất, đoạn sai đốt cung A Phòng. Lửa cháy ba tháng chưa tắt, bao nhiêu cung đài mỹ lê nguy nga thảy đều ra tro hết.

Ôi ! Công trình dân chúng bao nhiêu năm trời xương máu, dưới tay bạo chúa, chỉ trong phút chốc tan tành.

Người sau có thơ rằng:

Chén ngọc vỡ tan xem tợ tuyết !

Quân Hàn nghìn vạn đều lưu huyết

Hàm Dương lửa cháy mấy tuần trăng

Bá nghiệp đang theo lan khói biếc

Cung điện nhà Tần ra tro, lòng dân Tần cũng lạnh lẻo, họ chán ngán hành động hung tàn của Hạng Vũ.

Các chư hầu đóng quân nơi Hàm Dương lâu ngày, muốn rút về, rủ nhau đến nói với Phạm Tăng:

- Chúng tôi đến đây đã lâu, chưa được phong thưởng tước lộc sợ rằng trong nước có biếng nên muốn xin lui về.

Phạm Tăng nói:

- Xin các ngài chờ đợi ít hôm, tôi sẽ bảo tấu với đại vương.

Nói xong vào yết kiến Bá Vương nói:

- Các vua chư hầu theo đại vương đánh Tần đều có công lao mà chưa được phong thưởng. Xin đại vương luận công hành thưởng rồi cho đâu về đấy để họ được an tâm.

Bá Vương nói:

- Ý ta muốn phong tước cho họ đã lâu song có một điều khó khăn nên còn do dự.

Phạm Tăng hỏi:

- Tâu Ðại vương, có thể cho tôi biết điều khó khăn chăng ?

Bá Vương nói:

- Vua Hoài Vương có ước: Ai vào Quan Trung thì làm vua. Lấy lẽ công bình thì Bái Công được làm. Nay ta tiếm vị còn biết phong Bái Công làm sao !

Phạm Tăng nói:

- Nếu muốn thiên hạ khỏi cho Ðại vương là kẻ cướp công thì nên phong Bái Công vương chức. Ba Thục, cũng thuộc đất Quan Trung, nhưng non sông hiểm trở, nhà Tần trước đây thường đầy kẻ có tội vào đấy. Vậy cứ phong cho Bái Công làm Hán vương, rồi phong cho Chương Hàm, Tư Mã Lân, Ðổng Ể làm vua Tam Tần để chẹn đường hiểm yếu, không cho Bái Công thoát ra khỏi đất Ba Thục. phái chết già trong hung địa. Tuy tiếng là phong vương song kễ như là đày biệt xứ.

Sở Bá vương nói:

- Kế ấy rất hay.

Liền sai quan Quân Chính Tư đem sổ bộ để luận công phong thưởng.

Bá vương phong thưởng như sau:

- Bái công làm Hán vương, đóng đô ở Nam Trịnh, cai trị 41 huyện.

- Chương Hàm làm Ung vương, đóng đô ở Phế Khẩu, cai trị đất Thượng Tần, gồm 38 huyện.

- Tư Mã Hân làm Tắc vương, đóng đô ở Lịch Dương, cai trị đất Hạ Tần, gồm 18 huyện.

- Ðổng Ể, làm Ðịch vương, đóng đô ở Cao Nô, cai trị đất Trung Tần, gồm 30 huyện.

- Thần Dương làm Hà Nam vương, đóng đô ở Lạc Dương, cai trị Hà Nam gồm 20 huyện.

- Anh Bố, làm Cứu Giang vương, đóng đô ở Lục Hợp cai tn 45 huyện.

Và, những người sau đây cũng đều được lần lượt phong thưởng trấn những nơi không quan trọng lắm, như:

- Cung Ngao làm Lâm Giang vương.

- Ngô Nhuế làm Hoành Sơn vương.

- Ðiền An làm Tế Bắc vương.

- Ngụy Bái làm Tây Ngụy vương.

- Trương Nhĩ làm Thương Sơn vương.

- Tang Ðồ làm Yến vương.

- Triệu Yết làm Ðại vương.

- Ðiền Hoành làm Thượng Tề vương.

- Ðiền Úc làm Trung Tề vương.

- Trịnh Lã làm Hàn vương.

- Trần Thắng làm Lương vương.

- Ðiền Vinh làm Tiền Tề vương.

- Ðiền Khánh làm Triệu vương.

- Trần Dư làm Bắc Triệu vương.

- Hạng Trang làm Ðông Giáo vương.

- Hạng Chính làm Xuân Thắng vương.

- Phạm Tăng làm Thừa Tướng

- Hạng Bá làm Thượng Thư lệnh.

- Chung Ly Muội làm hữu Tư Mã.

- Ðinh Công làm tả Tướng quân.

- Long Thư làm Ðại Tư Mã.

- Quý Bố làm tả Tư Mã.

- Ung Tôn làm hữu Tướng quân.

- Lưu Tần làm hậu Tướng quân.

- Trần Bình làm Ðô Úy.

- Tàn Sinh làm tả Giám Nghị.

- Vũ Anh làm Giầu Chiên Ðại tướng quân

- Hoàn Sở làm Ðại tướng quân.

- Tử Kỳ làm Ðại tướng quân.

- Hàn Tín làm Chấp kích lang.

Văn vũ bá quan sau khi được phong tước quyền mỡ tiệc ăn mừng trong ngoài rộn rịp.

Riêng Bái Công lòng bối rối không an. Chư tướng thấy vậy hậm hực nói:

- Hán Trung là chỗ nhà Tần dùng để đày tội nhân, nay Bá vương phong Chúa công vào trấn nơi đó, chẳng khác nào muốn giam lỏng, ấy là mưu của Phạm Tăng muốn hại Chúa công đó.

Phàn Khoái nỗi giận nói:

- Phạm Tăng khi chúng ta thái quá. Tôi xin liều chết đem thân chống lại quyết không nghe lời Bá vương.

Bái Công cũng tỏ ý hằn học:

- Công ta rất lớn, diệt nhà Tần, thâu đất Quan Trung, lẽ ra phải được làm vua nước Tần, đóng đô ở Hàm Dương mới đáng, sao lại đày vào nới lâm sơn chướng khí, bốn bề núi non rừng rậm, chịu sao được.

Tiêu Hà vội can:

- Làm vua ở Hán Trung tuy xấu, nhưng còn hơn mất cả sự nghiệp. Chịu khuất một người mà thu phục được thiên hạ đó là gương vua Thang, vua Vũ đời xưa vậy. Xin Ðại vương cứ vào Hán Trung, tích thảo dồn lương chiêu hiền đãi sĩ lấy Ba Thục làm căn cứ, mộ thêm quân, ngày kia kéo ra đánh Tam Tần, thì làm gì chẳng thu phục được thiên hạ.

Trương Lương cũng nói:

- Thục tuy là tội địa nhưng trong có núi non hiểm trở, ngoài có sông ngòi bao quanh, tiến thì có thể chiếm được thiên hạ, thoái thì có thể giữ được biên cương. Ðó thực là chỗ đất dụng võ. Ðại vương nên vui lòng nhận lấy.Nếu tỏ ý bất mãn tất Bá vương tìm cách ám hại. Hơn nữa, Phạm Tăng là kẻ mưu sâu, ta không nên chống đối.

Hán vương bùi ngùi nghe theo, và nói:

- Nếu không có Tiên sinh giải bày, ta đã lầm việc lớn.

Lịch Tư Cơ nói:

- Chúng ta vào Hán Trung có ba điều lợi. Thứ nhất, đất Thục hiểm trở, xa cách Trung nguyên, không ai rõ được thực hư. Thứ nhì, trong lúc Ðại vương có công, bị Bá vương bạc đãi, tất lòng dân mến chuộng. Thứ ba, chúng ta có đủ thời giờ, hoàn cảnh để tạo lấy thời thế. Có ba điều lợi như vậy lo gì không gồm thâu được thiên hạ sau này.

Hán vương mừng rỡ liền chọn ngày khởi hành.

Giữa lúc đó, Phạm Tăng, sau khi đề nghị phong Bái công làm Hán vương, trấn thủ Hán Trung, bỗng nghĩ lại rằng:

- Bái Công mạng hỏa, tất cả đồ dùng hoàn màu đỏ thuộc hỏa, nay đến Hán Trung, đất phương Tây thuộc kim. Kim mà gặp hỏa tất thành đại khí.

Nghĩ như vậy liền vào tâu với Bá vương:

- Bệ hạ phong Bái công làm Hán vương, Bái công có ý bất bình. Vả lại chư tướngg của Bái công phần nhiều là người Sơn Ðông, đều có ý oán Bệ hạ. Nếu không dùng uy lực trừ đi, sau này khó tính.

Bá vương nói:

- Ta đã phong tước rồi nay còn tranh cải nữa sao được

Phạm Tăng suy nghĩ một lúc rồi tâu:

- Ngày mai Bệ hạ đòi Hán vương vào chầu, nếu Hán vương tỏ ý bất mãn, xin Bệ hạ chém quách là xong.

Bá vương nhận lời. Hôm sau, Hán vương vào chầu.

Bá vương hỏi:

- Ta phong ngươi vào Hán Trung ngươi có thuận đi hay không ?

Hán vương khúm núm tâu:

- Ðã làm tôi ăn lộc vua, thì sinh mệnh ở trong tay vua, có lẽ nào còn dám nói thuận hay không thuận. Tôi cũng như con ngựa của Bệ hạ, giật cương thì đi, gò cương thì đứng lại, thế thôi.

Bá vương cười khúc khích, nói:

- Nhà ngươi thật khéo ví dụ ! Thôi, ta cho về thu xếp để lên đường, không còn gì hỏi han nữa cả.

Hán vương vội vàng trở về dinh.

Trương Lương mừng rỡ nói:

- Ðại vương có biết việc nguy hiểm ngày hôm nay chăng ?

Hán vương ngạc nhiên không hiểu. Trương Lương nói tiếp:

- Ðại vương hồng phúc lớn lắm. Ban nãy nếu Ðại vương nói là "bằng lòng hay không bằng lòng" thì nguy rồi.

Hán vương bấy giờ mới biết đó là kế của Phạm Tăng, liền hỏi Trương Lương:

- Nếu cứ ở đây mãi e có điều nguy hiểm. Tiên sinh liệu sao ?

Trương Lương nói:

- Ðể tôi bàn với Hạng Bá và Trần Bình rồi sẽ liệu. Bây giờ xin Ðại vương cứ thu xếp hành trang sẵn sàng để chờ dịp lên đường.

Rồi đó, Trương Lương đến nói với Hạng Bá và Trần Bình:

- Phạm Tăng có ý hại Hán vương. Hán vương muốn đi ngay cho thoát nạn. Hai ông có kế gì xin giúp đỡ. Tôi quyết chẳng quên ơn.

Trần Bình ngồi nghĩ một lúc rồi ghé vào tai Trương Lương nói mấy câu.

Trương Lương vỗ tay khen:

- Kế ấy hay lắm.
Về Đầu Trang Go down
  • Trả lời chủ đề này

Bài gửi by Admin Wed Apr 22, 2015 6:18 am

Hán Sở tranh hùng Empty Re: Hán Sở tranh hùng

Admin
Admin
Administrator
Administrator

Tổng số bài gửi : 5122
Points : 8388
Reputation : 1360
Join date : 21/11/2014
Đến từ : Tp.HCM

https://ccxiqi.forumvi.com
Hồi 12

Cứu Hán vương, Trần Bình lập kế

Ðốt Sạn đạo, Trương Lương chủ mưu

Bá vương phong tước chư hầu xong, ý muốn về đóng đô nơi Bành Thành, nhưng hay tin vua Nghĩa Ðế chưa thiên đô sang Giang Nam, lòng nóng như đốt.

Một hôm, Bá vương triệu quần thần đến hỏi:

- Nay vua Nghĩa Ðế không chịu thiên đô qua Giang Nam, nhường Bành Thành cho ta, các khanh nghĩ thế nào ?

Trần Bình bước ra tâu:

- Trời không hai mặt, nước chẳng hai vua. Nay Bệ hạ đã lên ngôi Thiên tử, lấy quyền hạn phong chư hầu, mà lại còn thỉnh mệnh Hoài vương, tránh sao khỏi thiên hạ chê cười. Cứ như ngu ý, Bệ hạ nên sai quân sư đem vài viên Ðại tướng đến Bành Thành bắt Hoài vương phải thiên đô đến một nơi cùng tịch, coi như bỏ đi vậy. Như thế tôn hiệu Bệ hạ mới chính đáng.

Bá vương chuẩn tấu, liền gọi Phạm Tăng đến, phán:

- Quân sư vì trẫm dẫn hai tướng Hoàn Sở, Vũ Anh thẳng đến Bành Thành, bắt vua Nghĩa Ðế phải thiên đô ngay không được trì hoãn. Ðoạn, sửa sang cung thết trẫm ngự về đóng đô. Vì Bành Thành là nơi quê hương của trẫm.

Phạm Tăng tâu:

- Bệ hạ truyền chỉ tôi chẳng dám trái lời, song tôi chỉ sợ trong lúc vắng mặt tôi, có kẻ lừa dối Bệ hạ. Vì vậy, tôi xin ba điều.

Bá vương nói:

- Ðược, quân sư cứ nói.

Phạm Tăng tâu:

- Thứ nhất, Bệ hạ chớ nên rời khỏi Hàm Dương, vì Hàm Dương xưa nay là nơi trù mật, đất rộng, dân giàu, thiên hạ không đâu bằng. Thứ hai, nên trọng dụng Hàn Tín, vì Hàn Tín là kẻ có tài Nguyên Nhung. Nếu đắc dụng Hàn Tín sẽ là kẻ phi thường trong thiên hạ, không ai dám tranh phong. Nhược bằng không dùng thì phải giết đi, chớ nên dể lọt vào tay người khác. Thứ ba, chớ nên cho Hán vương vào Hán Trung vội. Hãy tạm giữ đến lúc tôi về sẽ tính. Ba điều ấy rất khẩn yếu, xin Bệ hạ chớ quên.

Bá vương nói:

- Quân sư cứ an tâm làm nhiệm vụ. Trẫm xin ghi nhớ.

Phạm Tăng liền dẫn bọn Vũ Anh, Hoàn Sở thẳng đến Bành Thành.

Ðêm hôm ấy, Trần Bình dâng biểu tâu với Bá vương:

"Quốc gia lấy sự giàu mạnh làm gốc. Thánh vương lấy nhân nghĩa làm đầu. Bê hạ nay mới lên ngôi hai điều căn bản là giữ gìn kho tàng cho sung túc, ban bố điều ân cho dân lành. Thế mà chư hầu đều tụ họp ca nơi Hàm Dương này, mỗi ngày ít ra cũng phải cung cấp thực phẩm cho lơn 3, 4 vạn quân. Phải tính, mỗi ngày dùng hơn 300 gánh rượu, 200 con dê, 400 lợn, 100 trâu, 4000 cân gạo 3000 hộc đậu, 2000 bó củi v. v.. như thế thì chẳng bao lâu kho tàng hết sạch, dân chúng nghèo nàn đó là chưa nói những sự nhiễu hại của quân sĩ đối với nhân dân làm cho nhân dân, oán trách Bệ hạ. Xin Bệ hạ xét lại ?"

Bá vương xem biểu xong, truyền cho các nước chư hầu, hạn trong ba ngày phải lui quân về nước. Duy có Hán vương hãy tạm ở lại Hàm Dương, đợi phạm Tăng về sẽ liệu.

Hán vương được tin kinh sợ than:

- Ôi ! Nếu chờ Phạm Tăng về, Phạm Tăng bày kế hại ta, còn vào Hán Trung sao được ?

Liền đòi Trương Lương vào hỏi:

- Bây giờ Bá vương cho chư hầu đâu về đấy, chỉ riêng ta bị bắt ở lại đây, thật nguy lắm. Tiên sinh có kế gì giải cứu chăng ?

Trương Lương nói:

- Nay gia quyến Ðại vương còn ở cả nơi Phong Bái, Ðại vương nên dâng biểu xin về thăm gia quyến và mang gia quyến đến đây. Thế rồi tôi sẽ có kế cứu thoát.

Hán vương theo lời, lập tức sai Lịch Tư Cơ dâng biểu.

Tờ biểu viết như sau:

"Ðức Thánh vương lấy hiếu trì dân, làm cho dân theo về đạo hiếu, gia đình thỏa thuận nhà cửa sum vầy. Bang tôi vốn người Phong Bái, một kẽ thường dân, ngữa đội ơn trên, được phong vương tước. Tấm thân vinh quy đã đủ mười phần. Duy chỉ cha mẹ, vợ con còn ở nơi cố quán tấm lòng tấc cỏ chưa chút báo đền. Nay xin để hết binh mã lại đây một mình về thăm quê quán, trong hạn ba tháng sẽ cùng gia quyến đến Hàm Dương phục mệnh. Chút tình khuyển mã, cúi đầu trần tấu, xin Bệ hạ đoái hoài."

Bá vương xem biểu xong, phán:

- Hán vương xin về thăm cha mẹ, thật phải đạo làm con. Tuy nhiên, trẫm lại nghĩ rằng Hán vương xin đi đây không phải là chân ý, mà có lẽ vì bất mãn việc trẫm giữ lại Hàm Dương chăng ?

Hán vương thất kinh, khúm núm tâu:

- Muôn tâu Bệ hạ, kẻ hèn này được phong vương tước cũng đã đũ lắm rồi còn gì bất mãn nữa. Phụ thân tôi mình già, tuổi yếu, dưới gối không kẻ chăm nom, đạo làm con nghĩ không đành lòng. Xin Ðại vương thương tình rộng xét.

Nói xong, Hán vương gục xuống đất khóc nức nở.

Trương Lương bước ra tâu:

- Không nên để Hán vương về Phong Bái, nên bắt Hán vương vào ngay Hán Trung, rồi Bệ hạ sai người bắt Thái công và gia quyến đến đây làm con tin. Như vậy chẳng bao giờ Hán vương dám gian trá điều gì nữa.

Bá vương ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:

- Lúc đi, quân sư có dặn phải giữ Hán vương lại đây đừng để vào Hán Trung, e sanh dị ý.

Trân Bình bước ra tâu:

- Bệ hạ đã phong Lưu Bang làm Hán vương mà giữ lại đây mãi e thất tín với thiên hạ. Chi bằng cứ nghe theo lời Tử Phòng, bắt Thái công làm con tin, Hán vương đâu dám trái mệnh.

Bá vương nói:

- Nếu các ngươi thấy việc cho Hán vương vào Hán Trung là cần thiết cho uy tín, thì trẫm cũng y lời. Thế thì trẫm truyền cho Hán vương vào ngay Hán Trung, mà không được về Phong Bái.

Hán vương giả khóc lóc van xin mãi.

Bá vương lấy lời phủ dụ:

- Thôi, nhà ngươi cứ an lòng đi trấn nhậm. Ðợi lúc nào trẫm dời đô đến Bành Thành sẽ sai người rước Thái công về nuôi dưỡng thay cho nhà ngươi.

Hán vương tâu:

- Ðội ơn Bệ hạ ! Kẻ hèn này dẫu đến chết cũng không quên ơn ấy.

Nói xong bái tạ lui ra. Chung Ly Muội thấy Bá vương cho Hán vương về Hán Trung, vội vã can:

- Lúc quân sư lâm hành có ân cần xin Bệ hạ đừng cho Hán vương vào Hán Trung, Bệ hạ đã quên rồi sao ?

Bá vương nói:

- Ðã bắt gia quyến người ta quản thúc nơi đây, còn giữ người ta làm gì nữa. Vả lại lời ta đã phán, không thể làm khác hơn được. Nhà ngươi không cần nhắc đến chuyện ấy nữa.

Hàn Tín thấy vậy than thầm:

- Ðã cho vào Hán Trung mà còn giữ gia quyến ở đây mai sau họ vì gia quyến cố đánh để giải thoát thì chúng ta tất phải chết. Tiếc thay ! Lời nói của quân sư không được xem trọng.

Hán vương về đến đại trại, lập tức chỉnh đốn binh mã, lên đường. Trăm họ kéo nhau tiễn biệt, đứng chật hai bên đường, ai nấy đều tỏ lòng ái mộ.

Các bậc bô lão đến trước ngựa, nói:

- Chúng tôi cầu mong Ðại vương được làm vua nơi Quan Trung này, nay Ðại vương lại vào Hán Trung, chúng tôi biết bao giờ còn trông thấy ánh mặt trời nữa.

Hán vương nói:

- Chúng dân cứ thủ phận làm ăn, có ngày sẽ tương kiến.

Tiêu Hà nói với các bô lão:

- Các cụ nên trở lại kẻo Bá vương hay được, chẳng những hại cho các cụ mà còn nguy hiểm đến Ðại vương nữa.

Nói xong, giục quân lên đường. Ði được một quãng dài, mà tiếng khóc than của dân chúng vẫn còn vang đến.

Trương Lương dẫn đường, vào mạn núi Thiểm Sơn.

Ði được 90 dặm thì tới huyện Phượng Tường rồi đến cửa ải Mê Bồn. Lại đi 30 dặm nữa đến huyện Bảo Kê rồi đến cửa quan Ðại Tân và đến Sạn đạo.

Quân Hán vương toàn là người Sơn Ðông, không quen trèo non, lặn suối, nay tới đường Sạn đạo chỗ thì cao vút mây xanh, chỗ thì xuống tận suối thẳm, một cái trợt chán có thể bỏ mạng được, lấy làm kinh sợ, nói với nhau:

- Chúng ta vào đây, bốn bề hoang vu, rừng thâm nước độc, nếu không liều chết giải thoát cho mình, thì trọn đời làm ma dại nơi hoang địa này.

Phàn Khoái nghe nói nổi giận hét lớn:

- Các ngươi nói rất phải, dẫu chết với bọn chúng cũng còn mát lòng hơn sống trong đất này. Tôi xin nguyện làm tiên phuông, cử binh chinh phạt cho.

Hán vương bùi ngùi nói:

- Ta thà chết còn hơn đem thân đến đây cầu sống. Một mai bọn Chương Hàm đóng quân chận lối này, dầu ta có cánh cũng không thoát ra được

Trương Lương, Tiêu Hà, Lịch Tự Cơ đều can:

- Nếu Ðai vương chán nản như thế e hỏng việc lớn.

Hán Trung càng hiểm trở bao nhiêu càng giúp cho Ðại vương dễ định thiên hạ bấy nhiêu. Ở đây Ðại vương tha hồ chiêu binh mai mã, dẫu cho Bá vương có tám tai bốn mắt cũng không thể nào biết được. Khi quân ta có đủ sức mạnh thì còn sợ gì gian nguy hiểm trở, trước địch Tam Tần, sau bình thiên ha có khó chi.

Hán vương nghe lời khuyên giải lòng cũng nguôi ngoai nên truyền Phàn Khoái đốc binh thẳng vào Bao Trung.

Khi đến núi Kim Ngưu, ba quân dừng lại nghỉ ngơi.

Hán vương hỏi:

- Sao lại gọi là Kim Ngưu ?

Lịch Tự Cơ nói:

- Trước kia đường Hán Tung ra Trung Nguyên còn hiểm trở bằng vạn lần ngày nay, tuyệt không có lối nào đi lại.Vua Huệ vương nhà Tần muốn kiêm tính sáu nước, nhưng không có cách nào kéo quân vào đánh Thục đặng. Nghe nước Thục có năm người lực sĩ sức mạnh xẻ núi lấp sông, liền bày ra một kế đúc năm con trâu bằng sắt phao đồn rằng: nhà Tần có năm con trâu vàng mỗi ngày tiêu ra năm đấu vàng! Vua thục tưởng thật, sai năm người lực sĩ, khai sơn phá thạch, lấy lối ra Tần, cướp năm con trâu ấy. Nhưng khi mở lối xong, cướp được trâu té ra là trâu sắt. Vua Huệ vương mượn con đường ấy đem quân vào đánh lấy đất Thục, làm ra con đường Sạn đạo, và đặt tên núi là Kim Ngưu.

Hán vương nói:

- Chỉ vì vua Thục tham vàng mà mở đường cho quân Tần vào cướp đất !

Quân sĩ nghĩ ngơi xong toan lên đường, Trương Lương bước đến nói với Hán vương:

- Tôi tiễn chân Ðại vương đến đây rồi, xin cho phép tôi được trở về cố quốc.

Hán vương kinh ngạc nói:

- Từ khi ta gặp được Tiên sinh, đã bao lần gian nguy khổ cực nhờ Tiên sinh giúp đỡ, mới mong được toàn mạng, nay Tiên sinh bỗng nhiên bỏ ta trong lúc sự nghiệp chưa thành ta còn biết nương cậy vào ai ?

Trương Lương nói:

- Trước đây vì phải luôn luôn tranh đấu trước gian nguy, nên tôi không dám rời Ðại vương nữa bước. Nay Ðại vương vào Hán Trung, đâu còn gì nguy hiểm nữa ? Giữ tôi bên cạnh, Ðại vương chẳng ích gì ! Tôi xin từ giã Ðại vương trở về thăm cố chúa, nhân tiện tính giúp cho Ðại vương ba việc, xin Ðại vương cứ an tâm.

Hán vương hỏi:

- Ba việc ấy là ba việc gì xin Tiên sinh chỉ giáo.

Trương Lương nói:

- Một là: về du thuyết Bá vương, bày Bá vương thiên đô sang Bành Thành, dành Hàm Dương cho Ðại vương sau này, trở về lên ngôi thiên tử.

Hai là: đi du thuyết chư hầu bỏ Sở phò Hán, và tìm cách làm cho Bá vương không đế ý đến lực lượng Ðại vương nữa. Ba là: tìm cho Ðại vương một người Ðại nguyên soái, đủ tài diệt Sở hưng Lưu Hàm, xong ba việc ấy tôi sẽ trở về Hàm Dương chờ đón Ðại vương.

Nay chỉ khuyên Ðại vương một điều là cố gắng nhẫn nhục, vì Hán Trung chỉ là nơi ở tạm, không quá ba năm Ðại vương sẽ vào Trung Nguyên làm chủ thiên hạ.

Hán vương nói:

- Nếu thực được như lời Tiên sinh thì Bang này dẫu khổ nhục đến đâu quyết chẳng dám sờn lòng. Nhưng Tiên sinh định tìm một vị Nguyên soái, mà Tiên sinh không trở về đây, làm thế nào được ?

Trương Lương nói:

- Người ấy sẽ là một anh tài trong thiên hạ. Khi tìm được tôi sẽ chỉ tỏ đường lối để người ấy tìm đến đây. Ðại vương phải thu dụng, chớ thất tín.

Hán vương hỏi:

- Tiên sinh phải lấy gì làm tin, ta mới biết là người của Tiên sinh giới thiệu chứ ?

Trương Lương nói:

- Tôi xin giao cho người ấy một giốc thư. Trong thư tôi sẽ viết những lời bí mật của Ðại vương nói với tôi lúc bình nhật.

Trương Lương nói xong, cúi đầu giã biệt.

Hán vương nắm tay rơi lệ nói:

- Xin Tiên sinh đừng sai ước. Tiên sinh về có gặp thân phụ tôi xin nói giúp một lời rằng: Bang này ngày đêm mong nhớ cội thung, nhưng hoàn cảnh không thể nào phụng dưỡng được. Xin người cứ giữ gìn thân thể, và trông nom các cháu. Còn trời còn đất, tất còn có ngày đoàn tụ.

Trương Lương nói:

- Vâng, tôi xin tuân mệnh.

Nói xong, lại dắt Tiêu Hà ra dặn dò mọi việc và nói:

- Lúc nào tôi tìm được vị Nguyên soái thì tướng quân phải hết lòng tiến cử nhé. Bức thư có rọc mất một chéo góc.

Tiêu Hà nói:

- Tiên sinh cứ yên lòng, nếu tôi thấy người cầm giốc thư đến đây quyết không để lỡ việc.

Trương Lương bái biệt Hán vương, giã từ tướng sĩ rồi lên ngựa trở lại.

Hán vương tiễn đưa mấy dặm đường.

Bỗng phía sau có tiếng kêu la ầm ĩ, và ngọn lửa cháy ngất trời, lan ra hơn ba mươi dặm. Hỏi ra mới biết Trương Lương đốt Sạn đạo rồi.

Hán vương thất kinh, ngước mặt lên trời than:

- Ôi chao ! Trương Lương đã trở về còn nhẫn tâm đốt Sạn đạo là cố ý giam lỏng chúng ta nơi đây trọn đời bỏ xương trong núi thẳm rồi.

Quân sĩ cũng dều nhao nhao chửi rủa Trương Lương và nói:

- Trời ơi ! Thế là chúng ta đành sống làm mọi nơi xứ Hán Trung, để rồi chết làm quỉ nơi hoang vu này, chứ còn đường sá nào mong trở về nửa.

Ðang lúc ba quân huyên náo, Tiêu Hà chạy lại nói nhỏ với Hán vương:

- Xin Ðại vương chớ oán Trương Lương. Sở dĩ Trương Lương đốt Sạn đạo là để cho Bá vương không còn để ý đến ta nữa, quân tướng Tam Tần ăn no ngủ kỹ không đề phòng xin Ðại vương lượng xét.

Hán vương như sực tỉnh, thở hào hển nói:

- Nếu không có nhà ngươi, ta đã hiểu lầm oán trách người hiền.

Nói xong, truyền ba quân tiếp tục lên đường.

Khi đến Bao Dung, Hán vương tìm lời phủ dụ quân sĩ, rồi chọn ngày lên ngôi, thi ân bố đức, dân chúng đem lòng cảm phục.

Năm ấy được mùa, dân chúng ấm no, trăm họ an vui, non sông tươi thắm.

Hán vương phong Tiêu Hà làm Tướng quốc, Tào Tham, Phàn Khoái, Chu Bội, Quán Anh đều làm tướng.

Từ đó, chiêu hiền đãi sĩ, tích thảo dồn lương, chỉ hơn vài tháng dân Hán Trung, đường không nhặt của rơi, đêm ngủ không cần đóng cửa, tuyệt nhiên không có một kẻ gian manh trộm cướp, thật là một cảnh thái bình.

Sau khi đốt Sạn đạo, Trương Lương đến Phương Linh nghỉ một hôm, ngày hôm sau qua Phượng Châu, Ích Môn, đi gần tới đia phận Bảo Kê, bỗng có một tướng kéo một đoàn quân ra đón đường hét lớn:

- Trương Lương ! Ta vâng lệnh quân sư Phạm Tăng đến đây đón ngươi đã lâu.

Trương Lương kinh ngạc, xem lại thì thấy đó là nha tướng của Hạng Bá.
Về Đầu Trang Go down
  • Trả lời chủ đề này

Bài gửi by Admin Wed Apr 22, 2015 6:19 am

Hán Sở tranh hùng Empty Re: Hán Sở tranh hùng

Admin
Admin
Administrator
Administrator

Tổng số bài gửi : 5122
Points : 8388
Reputation : 1360
Join date : 21/11/2014
Đến từ : Tp.HCM

https://ccxiqi.forumvi.com
Hồi 13

Vì vua Hán, Trương Lương quyết chí

Can vua Sở, Hàn Sinh bỏ mình

Viên tướng ấy thấy Trương Lương sợ hãi, vội xuống ngựa, và cười lớn nói:

- Tiên sinh không nhận ra tôi sao ? Hạng công biết tiên sinh vào nơi hiểm trở, nên sai tôi đến đây bảo vệ.

Trương Lương mừng rỡ nói:

- Hạng công thật là người chu đáo.

Rồi cùng theo tướng ấy vào thành đến nhà Hạng Bá.

Hai người gặp nhau trong bầu hoan hỉ.

Hạng Bá sai lấy quần áo cho Trương Lương thay, trao đổi niềm tâm sự, và mở tiệc đãi đằng cho đến tối mới đi nghỉ.

Ðêm ấy, Trương Lương lòng bàng hoàng không ngủ được, bỏ ra ngoài hiên dạo cảnh ngắm trăng, nhân hỏi thăm chuyện các nước chư hầu đối với Bá vương như thế nào.

Bọn quân canh nói:

- Chư hầu đều đến bái yết Bá vương, duy có vua nước Hàn là Cơ Thành vì đến chậm lại để Trương Lương theo phò Hán vương vào Bao Trung, nên Bá vương truyền chém đầu, đưa linh cữu về nước cách đây vài hôm.

Trương Lương hay tin như sét đánh bên tai, tay chân bủn rủn, vội vàng chạy vào phòng, suốt đêm khóc sướt mướt, nước mắt ướt đầm cả gối.

Sáng hôm sau, Trương Lương cáo từ Hạng Bá, trở về Hàn quốc.

Hạng Bá nóí:

- Lâu nay bận rộn viẹc nước, tuy gặp nhau nhưng chưa bao giờ được cùng nhau tâm sự. Vừa rồi, tôi sai người đón Tiên sinh đến dây cốt để thỏa tình hoài mộ, sao Tiên sinh vừa đến lại đã giả biệt ?

Trương Lương đáp:

- Vừa rồi tôi nghe Hàn Vương bị Bá vương giết chết, chỉ vì tôi theo Hán vuơng vào Bao Trung. Tình vua tôi rất nặng xin hiền huynh cho tôi về nước, khóc cho Hàn vương rồi sẽ trở lại đây bái yết.

Nói dứt lời, hai dòng nước mắt chảy xuống đọng trên má.

Hạng Bá cảm động không dám ngăn, chỉ hẹn sau một tháng sẽ cho người đến đón.

Trương Lương ra đi... buồn bã về đến nước Hàn vào tiếp kiến cac vị công tử, rồi ra trước mộ Hàn vương làm lễ, rồi khóc và than rằng:

- Chúa công ôi ? Ðể cho Hạng Vũ hại Chúa công thật là tội của Lương này. Nếu Lương này không báo thù được cho Chúa công xin muôn kiếp không làm người.

Than rồi lại khóc. Các công tử xúm lại khuyên giải mãi, Trương Lương mới chịu gạt lệ trở về thăm gia quyến.

Ðược vài hôm, Trương Lương lại thu xếp hành trang ra đi. Quê người cảnh lạ, non nước đìu hiu, lòng buồn bả khôn khuây.

Vừa đi được mấy ngày, bỗng gặp người nhà của Hạng Bá sai đến đón.

Trương Lương nghĩ tình bạn, không nỡ từ chối, trở lại nhà Hạng Bá.

Hạng Bá thấy Trương Lương buồn rầu, ân cần hỏi:

- Tiên sinh định đi đâu mà có vẻ buồn bả như thế?

Trương Lương thản nhiên đáp:

- Bấy lâu vì nước quên nhà, tuyết sương chẳng quản. Nay cố chủ đã mất, thân hèn lại nhiều tật, chẳng mong gì ở cõi đời này nữa; vì vậy muốn học thuật huyền vi của Lão Tử, theo lối phóng đãng của Trang Chu, hái rau vi theo Bá Di. Thúc Tề, rửa tai trâu học đòi Hứa Do, Sào Phủ chán vòng danh lợi, tìm thú sơm lâm, phú quý vinh hoa không dám nghĩ tới, hiền huynh đã là bạn, tôi chẳng dám giấu.

Hạng Bá biết không thể đem giàu sang làm vui Trương Lương được, nên chỉ xin lưu lại vài tháng để thỏa tình ngưỡng vọng.

Môt hôm, Hạng Bá vào chầu, Trương Lương ở nhà một mình đi bách bộ, đến một vườn hoa thấy có một tòa lâu đài tường cao, cửa rộng, cỏ hoa man mác trên có đề bốn chữ "Vạn quyển thư lâu".

Trương Lương lần vào. Trong thư lâu có nhiều phòng, nhưng đặc biệt nơi phòng chính trang hoàng đồ sộ, án thư ở giữ muôn vẻ trang nghiêm. Cách tường, một giá sách dể toàn trúc giản đời cổ. Một bên có để những văn thư rất nhiều. Trương Lương mở ra xem thì thấy đó là những tờ sớ tấu của sáu nước, những lời biểu của bá quan, vì Hạng Bá làm Thượng Thư lệnh nên các văn thư đều phải kiểm duyệt trước rồi mới đệ trình lên Bá vương.

Bản chính đem vào triều bản sao để ở nhà.

Trương Lương đọc qua mọt loạt thấy những tờ biểu ấy có tờ cũng hay, có tờ cũng dở có tờ lại toàn là lời sàm nịnh, nói chung là không có gì xuất sác. Bỗng Trương Lương rút đến tờ biểu sau cùng, xem qua, trát mồ hôi ướt áo.

Tờ biểu ấy như vầy:

" Tôi nghe nói trị thiên hạ tối thiểu phải có hai điểm. Thế và Cơ. Thế là xét điểm thực hư lượng sức mạnh, yếu. Biết mình, hiễu người, ấy là nét cần bàn để trị thiên hạ. Nếu chỉ lấy sức mạnh hoành hành chẳng qua là một cơn gió lốc, cây cỏ tuy ngã rạp xuống, nhưng chẳng bao lâu sau sẽ đứng dậy chơm chởm như muôn ngàn mũi giáo chống lại uy vũ.

Cơ là hiễu rõ sự hưng vong, xét cơ trị loạn, nếu không biết đến cơ, chẳng qua là nhóm giặc cỏ nổi lên, bạo phát bạo tàn, lâu dài sao được ?

Nay Bệ hạ tuy làm vua Quan Trung nhưng lòng người chưa phục. Dân chỉ sợ uy mà không mến đức. Trong vũ trụ, không có gì mạnh mà không đến lúc suy yếu. Cơn bão tố khủng khiếp kia, có thể xô tường, trốc đá nhưng rồi cũng phải dứt. Cái gì biểu lộ ra ngoài, cái ấy chóng diệt vong. Ngược lại cái gì ngấm ngầm, cái ấy lâu mất. Tỷ như lòng oán vọng của dân chúng, tuy không phát lộ, nhưng tồn tại mải trong lòng, khó mà tẩy sạch. Ðã uy rồi đến lúc phải khuất, đã mạnh rồi tất có lúc phải yếu. Nếu không thấu nghĩa chữ "cơ" làm sao có thể trị thiên hạ ? Tôi thấy vậy mà lo cho Bệ hạ đó.

Như Hán vương khi ở Sơn Ðông tham tài hiếu sắc mà lúc đến Quan Trung thấy của không màng thấy sắc không lụy, thi ân bố đức, khiến cho dân Tần cảm mến, đó chẳng phải là kẻ hiểu được chữ "cơ" và chữ "thế" trong thiên hạ ư ?

Nếu Hán vươngg thừa cơ xướng khởi, lấy lòng dân làm sức mạnh, lợi dụng cái yếu của Bệ hạ để làm cái mạnh của mình, có phải là lập được cái "thế" trong thiên hạ không ?

Cứ xem như việc đốt Sạn Ðạo để Bệ hạ khỏi ngó về phương Ðông. Tam Tần không có ý phòng bị về đất Hán, rồi đem quân Ba Thục về lấy Quan Trung là hiễu "thế" và biết "cơ" trong thiên hạ lắm !

Hán vương là kẻ đối thủ của Bệ hạ mà Bệ hạ không thấy cái nguy hiểm ấy, tướng sĩ chỉ biết thừa thuận ý vua, tưởng chỉ dùng cái Vũ của Bệ hạ sẽ trở thành người vô địch trong thiên hạ !

Tôi, dẫu là một kẽ hèn,nhưng đã ăn lộc vua lẽ nào không có lòng lo lắng , mạo muội đôi lời, không ngại trăm quan chê cười, hiền dâng vài kế: nay phải thêm quân phòng bị biên cương, rút bọn Chương Hàm về dùng vào việc khác, chọn người trí dũng chận lấp cửa quan, bắt gia thuộc Lưu Bang đến làm con tin, trong thì lo điều nghĩa, chọn sĩ cầu hiền, tuân theo chính lệnh nhà Châu, lấy dân làm gốc, ngoài thì trấn an chư hầu, sửa việc binh nhung, chọn người tài dùng làm Nguyên soái lo việc tảo trừ những mầm phản loạn, như thế, Lưu Bang nhất định không dám dòm ngó về phương Ðông, xã tắc vững bền như bàn thạch.

Vài lời trung trực giải bày xin Bệ hạ rộng xét ".

Ðọc xong tờ hiểu, Trương Lương rất kính phục, khen thầm:

- Người nầy đáng sánh với Y Doãn ở Nội Sằn, Thái Công ở sông Vị, nếu Bá vương dùng người này là nhà Hán phải nguy vong. Còn nếu Hán vương dùng được người này nước Sở phải mất. Chẳng biết hiện nay người này đang làm gì ? Và có ở đây chăng ?

Nghĩ rồi, đem văn thư xếp lại như cũ, dạo gót xuống lầu về thư phòng nằm nghỉ.

Một lúc sau, Hạng Bá đi chầu về, truyền mở tiệc khoản đãi, và nói:

- Tiên sinh với tôi chẳng khác nào anh em ruột, xin chớ khách tính nhé !

Trương Lương nói:

- Hiện nay tôi đã đặt mình ngoài vòng thế sự còn khách tính gì nữa.

Hạng Bá và Trương Lương cùng ngồi uống rượu.

Rượu được nửa chừng, Trương Lương hỏi:

- Nghe hiền huynh có vườn hoa đẹp, xin cho tiện đệ tiêu khiển một chốc có được chăng ?

Hạng Bá đứng dậy mời Trương Lương.

- Vâng, xin Tiên sinh cùng tôi dạo mát.

Hai người dắt tay đến vườn hoa, đi đến thư lâu, Hạng Bá mời Trương Lương vào chơi, Trương Lương giở tập văn thư ra xem, giả vờ hỏi:

- Văn thư ở đâu nhiều thế này ?

Hạng Bá đáp:

- Văn thư của sáu nước chưa tiến lãm, còn bỏ cả nơi đây . Trương Lương lục lạo một hồi rồi cầm tờ biểu ban sáng đưa cho Hạng Bá xem, và hỏi:

- Tờ biểu này của kẻ nào mà viết dài như thế ?

Hạng Bá đáp:

- Người ấy chỉ là môt tên quân hầu. Tuy nhiên tài có thể sánh với Lã Vọng nhà Chu, tiếc rằng chưa gặp thời.

Trương Lương vồn vã hỏi.

- Tàì như thế mà chỉ làm môt tên quân hầu ư ?

Hiền huynh có thể cho biết lai lịch người ấy chăng ?

Hạng Bá chậm rãi nói:

- Người ở Hoài âm, tên Hàn Tín, nhà nghèo, thuở trước làm nghề câu cá. Phạm Tăng đã hai ba lần tiến cử, nhưng Bá vương không dùng, chỉ cho làm chức Chấp Kích thôi. Thật đáng tiếc, vừa rồi Hàn Tín dâng biểu này lên Bá vương. Bá vương toan bắt tội , may có tôi xin giúp mới toàn mạng.

Trương Lương nghĩ thầm:

- Chính là người mà ta đã gặp nơi Hồng Môn trước đây. Nếu Hán vương dùng được người này, lo gì không phá được Sở, mà thù nước Hàn ta cũng trả được.

Trương Lương lưu lại nhà Hạng Bá vài hôm, dò xét quân tình, xong, nói với Hạng Bá:

- Tôi muốn tìm cảnh núi non thanh vắng để an thân, vậy từ đây xin giã biệt hiền huynh.

Hạng Bá quyến luyến nói:

- Tiên sinh cứ ở đây, sớm cuộc cờ, tối chén rượu, như thế cũng thanh thoảng rồi, cần gì phải tìm nơi thanh vắng ?

Trương Lương đáp.

- Tôi đã là người nhàn tản thì không thích chốn phồn hoa. Ở đây là trướng phủ, trước mắt rực cảnh vàng son, bên tai vang mùi thế sự, làm thế nào tâm hồn thoải mái được.

Hạng Bá dùng hết lời, gợi hết tình cảm nhưng không thể nào giữ Trương Lương lại được, liền tiễn chân ra khỏi Hàm Dương mặc cho Trương Lương vui phong nguyệt !

Trương Lương giã biệt Hạng Bá xong, thay áo quần, giả làm một đao sĩ, lẽn vào thành, lúc thì dừng chân nơi cây cao bóng mát, lúc thì vào ngõ hẻm hang sâu, lúc vào đình chùa, làng mac, lúc đến nơi chợ búa, phố phường, lưng đeo mấy đồng tiền, tay cầm năm quả táo, hát nghêu ngao, nói vơ nói vẩn. Bọn trẽ thấy lạ xúm nhau xem suốt ngày.

Một hôm, Trương Lương gặp một đứa trẻ mặt mày sáng sủa đỉnh ngộ, bèn gọi đứa trẻ ấy vào một ngôi chùa vắng, cho mấy đồng tiền, mấy cái bánh rồi dạy mấy câu như sau:

Hổ trong nước lặng

Cá lội thảnh thơi

Dầu ai phú quí trong dời,

Quê hương chẳng biết, lẽ trời chưa thông

Bóng tối mông lung

Người mang áo gấm.

Áo kia dầu đẹp

Chẳng được tiếng khen

Chỉ dạy vài lượt, đứa bé đã thuộc lòng.

Trương Lương dặn:

- Nếu có ai hỏi, em cứ nói rằng : " Em nằm mơ thấy thần dến dạy hát ", đừng nói ta dạy nhé ! Nếu em nói như vậy, em sẽ được sống lâu, giàu có còn ta dạy thì lúc chết xuống âm phủ sẽ bị nấu vào vạc dầu sôi, em nghe rõ chưa ?

Ðứa bé đáp:

- Thưa sư cụ, cháu xin vâng. Nhưng ngoài ra sư cụ còn dặn gì thêm nữa chăng ?

Trương Lương nói.

- Em đem lời nói ấy dạy cho các đứa trẻ khác, càng nhiều càng tốt.

Nói xong Trương Lương cho thêm đứa bé mấy đồng tiền nữa rồi tìm chổ vắng vẻ tạm trú để dò thêm tin tức.

Từ khi Bá vương cho chư hầu về nước, đêm ngày vẫn áy náy lo sợ dân Tần không phục, tìm cách gây rối nên thường cho người ra ngoài thám thính.

Một hôm, quân thám thính nghe đứa trẻ hát, vội về báo lại với Bá vương.

Bá vương không tin. Chiều hôm ấy cải trang một thường dân ra ngoài chợ, Bá vương trong thấy mấy đứa trẻ đang vừa đi vừa hát liền gọi lại hỏi:

- Ai dạy chúng bay hát thế ?

Một đưa trẻ trả đáp:

- Trời dạy chúng tôi hát đấy.

Bá vương kinh ngạc nghĩ thầm:

- Ðất Hàm Dương bị tàn phá, ta muốn thiên đô về Bành Thành. Nay câu đồng dao này ứng đúng theo ý định của ta, thế thì lòng trời hợp với lòng ta vậy.

Hôm sau, Bá vương hội quần thần, phán:

- Hiện nay có một câu đồng dao lưu truyền khắp chợ búa, tại sao các người không tâu cho ta biết. Câu hát ấy chính là trời muốn cho ta thiên đô về Bành Thành.

Bành Thành thuộc nước Sở, từ sông Hoàng sông Hà trở về phía Bắc, đất vuông nghìn dậm, chính là chổ nên đóng đô

đó. Nước cũ làng xưa còn đâu hơn được.

Quan Gián nghị Hàn Sinh bước ra can:

- Tâu Bệ hạ, những lời đồng dao chẳng qua lời người đặt ra, tuyên đồn nhảm nhí, xin Bệ hạ chớ tin. Quan Trung là nơi kiên cố, bốn mặt núi rừng, chỉ hở có một mặt phía Ðông mà thôi, nhưng phía Ðông lại có sông Hoàng Hà.Ðịa thế như vậy quả là nơi Thiện phủ. Nhà Châu dùng làm đất Hưng vương, nhà Tần lấy chổ này làm nơi đồ Bá. Xin Bệ hạ chớ nghe lời đồng dao mà bỏ nơi thắng địa.

Bá vương lắc đầu nói:

- Lòng trời đã ưng theo ý muốn của ta, ngươi chớ đem lời ngăn cản. Ta thiên đô về Bành Thành có ba điều cần thiết: Một là đã ba năm nay, ta lo chinh Ðông phạt Bắc chưa về quê hương. Hai là xứ Quan Trung đất ít núi nhiều, tầm con mắt trông không được quang đãng. Ba là điềm trời đã ứng, trái lại không hay.

Hàn Sinh nói:

- Bệ hạ gồm thâu bốn bể như mặt trời soi trên quả đất, dẫu ở đâu nhân dân cũng ngưỡng vọng, hà tất phải trở về cố hương mới vinh hạnh ?

Bá vương nói:

- Thôi, ngươi không cần nói nữa, đành rằng: " Bốn phương đâu cũng là trời, người trong bốn bể là tôi một nhà ". Nhưng ta thích ở dâu thì đóng đô ở đó, hề chi ?

Hàn Sinh nói:

- Trước khi Quân sư đi có dặn Bệ hạ không nên rời Hàm Dương kia mà.

Bá vương cười lớn nói:

- Ta là vua, đem chí dọc ngang, tung hoành bốn bể, há lệ thuộc theo ý muốn của một kẻ nào sao ?

Hàn Sinh không còn lời nào can ngăn nữa, tức giận bước xuống thềm, ngửa mặt lên trời thở phào ra một cái, rồi nói:

- Thường nghe người ta nói:

- Người nước Sở như con khỉ tắm mà đội mũ. Lời nói ấy nay xét thấy không sai.

Bá vương thoáng nghe câu nói ấy, hỏi Trần Bình:

- Hàn Sinh muốn nói gì vậy ?

Tràn Bình không dám giấu,tâu:

- Tâu Bệ hạ, Hàn Sinh oán Bệ hạ, lấy con khỉ mà ví người nước Sở .

Bá vương vỗ hét:

- Thế là ý gì ?

Trần Binh nói::

- Tâu Bệ hạ, câu nói có nhiều ý. Con khỉ mà cho mặc áo đội mủ vào, tuy bề ngoài giống loài người, song bên trong vẫn là khỉ. Ðó là ý thứ nhất. Con khỉ không quen mặc áo đội mũ, thế nào nó cũng bỏ quần áo đi. Ðó là ý thứ hai.

Bá vương nghe xong nổi giận mắng lớn:

- Súc sanh ! Dám buông lời sỉ nhục ta như thế sao ?

Liền truyền Chấp Kích Lang trói Hàn Sinh lại, dẫn ra chợ. Dân chúng đến xem chật cả trong ngoài.

Trương Lương lúc bấy giờ cũng đang lẩn mặt trong đám dân chúng ấy.

Hàn Sinh thấy quân nấu vạc dầu, tức giận, nói:

- Hởi người xứ Hàm Dương a ơi ! Ta vì trung với nước mà phải nấu dầu, chứ xét chẳng có tội chi. Ta chắc không quá một trăm ngày nữa, quân Hán vương sẽ ra đánh Tam Tần, lấy Hàm Dương, chừng ấy các ngươi mới thấy loài khỉ đội mũ.

Hàn Tín nghe nói, bảo Hàn Sinh:

- Thôi, xin quan Gián nghị chớ nói nữa ! Ông bảo là ông chết oan, nhưng theo tôi, tôi cho là ông chết đáng lắm.

Hàn Sinh trợn mắt cải lại:

- Tại sao ngươi dám nói thế ?

Hàn Tín nói:

- Ông làm chức Gián nghị, sao lúc giết tướng Tống Nghĩa, ông không can; lúc chôn hai mươi vạn hàng tốt, ông không can; lúc giết Tử Anh, đào mả Thủy Hoàng, đốt cung A Phòng, ông không can ? Nay bệnh trạng đã quá trầm trọng dầu trời cũng chẳng cứu được thì ông lại nhảy vào can gián. Như thế chết là đáng lắm. Chỉ có được một điều, nếu hồn thiêng có oán hận thì nên oán hận kẻ đã tạo ra câu đồng dao kia, chớ có oán hận kẻ hành hình này.

Nói xong ném Hàn Sinh vào vạc dầu. Dân chúng đều nhắm mắt thở dài. Trương Lương đứng bên cạnh, nghe Hàn Tín nói, kinh sợ, biết không phải không phải là người thường , liền theo dõi về đến tận nhà để biết chổ ở của Hàn Tín.

Sáng hôm sau, Hàn Tín vào phục mệnh, tâu lại việc hành hình Hàn Sinh. Bá vương liền sai Quý Bố đem quân đến Bành Thành, đốc thúc công việc sửa sang cung. Các quan thấy Hàn Sinh chết, không ai dám ngăn nữa.

Hàn Tín về nhà, nằm vắt tay lên trán ngẫm nghĩ:

- Con chim làm tổ ở cây còi, chẳng bao giờ được êm ấm.

Tiếng chuông thu không vừa điểm, bóng tối nhá nhem, Trương Lương giắt thanh bảo kiếm vào mình chui qua thành đến trước nhà Hàn Tín, nói với quân giữ cửa:

- Tôi là người đồng hương với Hàn tướng quân, xin vào yết kiến.

Quân vào báo. Hàn Tín ngẫm nghĩ:

- Mình là kẻ bần tiện nơi Hoài Âm, chẳng dám chơi bời với ai, tại sao nay có người đồng hương đến viếng ?

Ðiều này thực cũng lạ.

Hàn Tín còn đang suy nghĩ thì Trương Lương đã vào đến nơi.

Trông qua ánh trăng, Hàn Tín thấy Trương Lương mặt mày tuấn tú, dáng điệu thanh cao, xem chừng hơi quen, nhưng không dám hỏi, liền mời vào trong nhà thi lễ, và nói:

- Hiền công ở chốn nào lại chơi ? Quý hiệu là chi ? Có điều gì chỉ giáo ?

Trương Lương đáp.

- Tôi là người đồng hương với tướng quân, nhưng lưu lạc giang hồ từ thuở bé, nên tướng quân không rõ đặng. Nay nhân dịp qua đây, biết được tướng quân, nên xin vào thăm viếng.

Hàn Tín hỏi.

- Chẳng hay hiền công làm nghề gì mà dạo khắp giang hồ. Hẳn có một chí hướng ?

Trương Lương đáp:

- Tôi vốn có nghề xem tướng. Tiền nhân tôi có để lại cho tôi ba thanh bảo kiếm rất quý, vì vậy bấy lâu nay tôi đi tìm bậc anh hùng hào kiệt trong thiên hạ, kẽ nào đáng mặt thì dâng hiến. Hiện hai thanh bảo kiếm kia tôi đã dâng hai người xứng đáng rồi, còn một thanh này chưa gặp chủ. Nay nghe tướng quân là bậc hào kiệt, lại là kẻ đồng hương, nên mang lại đây kính biếu.

Hàn Tín thấy Trương Lương ca tụng thanh bảo kiếm liền hỏi:

- Thanh kiếm ấy có gì quý ?

Trương Lương ngâm lên một bài thơ ca tụng thanh kiếm, đại khái như sau:

Ðê ngầm dưới nước, giao long khóc

Ðem bõ trên không, quỉ mị kinh

Lưu truyền thiên cổ

Gíá trị thiên kim

Kiếm báu không đem bán

Chỉ hiến kẽ hùng anh !

Giang sơn mặc sức tung hoành

Giúp người dựng nước, lưu danh muôn đời.
Về Đầu Trang Go down
  • Trả lời chủ đề này

Bài gửi by Admin Wed Apr 22, 2015 6:19 am

Hán Sở tranh hùng Empty Re: Hán Sở tranh hùng

Admin
Admin
Administrator
Administrator

Tổng số bài gửi : 5122
Points : 8388
Reputation : 1360
Join date : 21/11/2014
Đến từ : Tp.HCM

https://ccxiqi.forumvi.com
Hồi 14

Lập kế, Trương Lương dụ Hàn Tín

Ðòi ấn, Anh Bố bức Hoài Vương

Hàn Tín thấy Trương Lương tán tụng thanh kiếm mãi, và biết mình là hào kiệt, lòng hoan hỉ, vội đứng dậy nói:

- Tín tôi từ đến nước Sở, chẳng qua là một kẻ hư danh, nay Tiên sinh có lòng hạ cố đem thanh bảo kiếm đến đây, ơn ấy không sao nói hết. Vậy xin Tiên sinh cho tôi xem qua kiếm ấy.

Trương Lương rút kiếm trao cho Hàn Tín.

Kiếm vừa rút ra khỏi vỏ, hào quang chói sáng ngời.

Trên bao có đề một thơ như sau:

Kiếm báu lập lòe tay dũng sĩ

Non sông môt dãi chí hiên ngang.

Máu hồng men rượu say băng tuyết

Muôn dặm sơn hà một tấc gang.

Hàn Tín bình nhật rất thích kiếm, nay thấy thanh bảo kiếm này bằng lòng lắm, chỉ vì trong túi không có tiền, nên không dám hỏi giá.

Sau một lúc lăm le thanh kiếm, Hàn Tín hỏi:

- Ngài có ba thanh kiếm, thế thì hai thanh kia ngài đã bán được bao nhiêu ?

Trương Lương nói:

- Tôi đã nói với tướng quân là kiếm tôi không phải bán. Nếu gặp người xứng đáng làm chủ, xin đem dâng không mà thôi, vì nghe tướng quân là bậc hào kiệt, mới đem kiếm đến đây.

Hàn Tín nói:

- Ða tạ Tlên sinh có lòng chiếu cố. Chỉ sợ Tín tôi chưa chắc phải là hào kiệt hay không ?

Trương Lương nói:

- Nếu không phải là hào kiệt thì đến vạn nén vàng tôi cũng không thèm bán.

Hàn Tín mừng rỡ, sai gia nhân dọn tiệc rượu khoản đãi. Trong lúc nâng chén, Hàn Tín hỏi:

- Thưa Tiên sinh, ba thanh bảo kiếm đều có tên cả chứ ?

Tnrơng Lương nói:

- Dĩ nhiên. Một thanh gọi là Thiên Tử kiếm, một thanh gọi là Tể Tướng kiếm, còn thanh này gọi là Nguyên Nhung kiếm. Thanh Thiên Tử kiếm còn gọi là Bạch Hồng Từ Ðiện, nguyên của Ngô vương đúc ra treo trên vách, giống tà ma quỉ mị phải xa lánh. Tể Tướng kiếm biệt danh là Long Tuyền Thái A, thanh kiếm này của Lôi Hoán đào được. Lôi Hoán giỏi vốn về thiên văn xem thấy có một tia sáng vọt lên sao Ngưu, sao Ðẩu, liền sai người đào nơi nền nhà sâu hơn mười trượng, được một cái hòm, mở ra thấy trong đó có thanh kiếm. Từ đó ánh hào quang không còn chiếu sáng nữa. Sau Lôi Hoá đeo kiếm lội qua sông, bỗng nhiên thấy mất. Trông xuống sông thì thấy kiếm ấy hóa thành con Giao Long đang vẩy vùng trong nước. Nguyên Nhung kiếm có tên là Can Tương, Mạc Tà. Nguyên vua nước Ngô là Hạp Lư đúc ra hai thanh, một thanh "Thư" và một thanh "Hùng". Tuy là của nhân tạo, song chọn ngày giờ, ứng theo các vì tinh tú, hợp khí âm dương, rèn vào lửa hơn mười năm mới thành, cho nên quý báu lắm. Vì sự quý báu ấy nên tôi đi bán kiếm phải dùng người tài đức mà trao.

Hàn Tín hỏi:

- Người tài đức thế nào mới dùng được kiếm báu của Tiên sinh ?

Trương Lương đáp:

- Người muốn dùng Thiên tử kiếm phải có đủ tám đức: Nhân, hiếu, thông, minh, kính, tắc, kiếm, học.

Hàn Tín hỏi tiếp:

- Còn dùng Tể Tướng kiếm phải có những đức nào ?

Trương Lương đáp:

- Cũng phải có đủ tám đức mới đeo được.

Thế nào là tám đức tể tướng ?

- Ðó là: Trung, chính, minh, biện, thứ, dong, khoan, hậu.

Hàn Tín hỏi:

- Còn như kiếm Nguyên Nhung cần phải có những đức gì ?

Trương Lương đáp:

- Cũng phải đủ tám đức: Liêm, quả, trí, tín, nhân, dũng, n'ghiêm, minh.

Hàn Tín lại hỏi:

- Tiên sinh đi bán kiếm mà hiểu thấu lẽ trời, quả là bậc anh tài. Song hai thanh kiếm kia Tiên sinh đã bán cho ai ?

Trương Lương nói:

- Thanh Thiên Tử kiếm thì tôi đã bán cho ông Lưu Bang, người Phong Bái.

Hàn Tín kinh ngạc, hỏi:

- Tiên sinh xem tướng Lưu Bang như thế nào mà bán Thiên Tử kiếm ?

Trương Lương thản nhiên đáp:

- Ông ấy là người khoan nhân đại độ, biết trọng dụng lương thần, biết nghe lời trung gián, không tham tài, không hiếu sắc, không bội nghĩa, không vong ân, thật là một người có đức, đáng làm Thiên tử. Trước đây, người ấy vì dân, chém bạch xà khởi nghĩa nơi núi Mang Ðãng, trừ nhà Tần tàn bạo, khiến thiên hạ mến phục. Ngay khi đó tôi đã hiến thanh kiếm cho ông ấy.

Hàn Tín hỏi:

- Còn thanh Tể tướng ngài đã trao cho ai ?

- Tôi đã trao cho ông Tiêu Hà.

Hàn Tín ngạc nhiên hỏi:

- Người ấy có tài gì vậy ?

Trương Lương gật gù nói:

- Thế, Tướng quân cũng chưa biết cả ông Tiêu Hà nữa ư ? Ông ta là người có tài thao lược, gồm đủ kinh luân, lại đầy đức khoan hồng, nhân nhượng, không lấy vũ lực làm trọng, chỉ lấy nhân nhu làm gốc, xem lúc ông ta theo Bái Công vào Hàm Dương, đem ba điều ước pháp truyền trong nhân dân, thì thật là tài Tể Tướng đă biểu lộ ra đó. Tôi dâng kiếm cho Tiêu Hà từ lúc ấy.

Hàn Tín nghe xong, mừng rỡ nóì:

- Tiên sinh bán kiếm cho Hán vương và Tiêu Hà thật xứng đáng. Nay thanh kiếm này Tiên sinh đem đến cho Tiểu tử, chỉ sợ rằng Tiểu tử không đủ tài đức Nguyên Nhung, phụ với lòng tin của Tiên sinh chăng ?

Trương Lương nói:

- Cứ như tài đức và cái học vấn của tướng quân dấu Tôn Ngô đời xưa cũng không hơn được. Chỉ vì chưa gặp được minh quân. Tỷ như con Thiên lý mã ngày xưa, lúc chưa gặp được Bá Nhạc thì Thiên lý mã phải nhốt chung vào chuồng trâu, chịu nhục với đứa ăn, đứa ở. Khi Bá Nhạc biết được, đem về nuôi dưỡng, Thiên lý mã vó câu dong ruổi, nghìn dặm một giờ, ai nấy đều khen ngợi. Ấy vậy, Tướng quân bây giờ chẳng khác con Thiên lý mã chưa gặp Bá Nhạc. Nếu tướng quân gặp đặng minh quân, tài đức ấy sẽ làm khuynh thành, nghiêng quốc có khó chi.

Hàn Tín nghe Trương Lương động đến hào khí, bất giác thở dài, đứng dậy nói:

- Ða tạ Tiên sinh, lời nói của Tiên sinh như soi vào buồng gan của kẻ thất thời này, khiến Tín tôi không thể cầm lòng được. Ðã lâu, tôi không thi thố được tài năng nào, mang danh là người tiểu tốt, mấy lần dâng biểu lên Bá vương, nhưng Bá vương không dùng. Nay Bá vương lại thiên đô về Bành Thành thì việc đời còn trông mong gì nữa ? Chẳng bao lâu Tín tôi cũng trở về cố hương, tiêu dao ngày tháng cho nhàn thân.

Trương Lương nói:

- Ấy chết ? Tướng quân nghĩ lầm rồi ! Ðấng anh hùng nuôi chí, thua cuộc này bày cuộc khác, cớ sao lại tủi phận hờn duyên ? Lấy cái học của tướng quân trong thiên hạ, thì thiếu gì nơi cá nước duyên ưa, có lẽ nào quay về làm một gã câu cá nơi xứ Hoài Âm nữa ?

Hàn Tín nói:

- Thưa Tiên sinh, lời nói của Tiên sinh chẳng khác nào liều thuốc chữa cho người ốm ! Tiên sinh lại đây cốt không phải bán gươm, mà e ý riêng gì đây. Thoạt trông dưới ánh trăng mờ, tôi đã hiểu, nhưng chưa dám nói. Tiên sinh có phải là Trương Tử Phòng, đang khuông phò Hán vương chăng ?

Trương Lương vội vàng đứng dậy thủ lễ, và đáp:

- Tướng quân đã biết, Lương này đâu dám giấu.

Lâu nay nghe danh tướng quân, đem lòng ngưỡng vọng, nay mới hân hạnh được yết kiến !

Hàn Tín mừng rỡ, nắm tay Trương Lương nói:

- Thế thì trời xui Tiên sinh đến đây để giúp Tín tôi tìm nơi vin rồng cưỡi phụng, xin Tiên sinh vì Tín tôi chỉ bảo cho.

Trương Lương nói:

- Tôi xem các vua chư hầu, không ai bằng Hán vương, người ấy là bậc siêu nhân, có thế làm nên đại sự.

Nếu tướng quân muốn về Hán, tôi xin đưa cho một vật làm tin, vật này còn quý hơn viên ngọc Biện Hòa, và lạ hơn chén Ngọc đẩu nữa.

Hàn Tín hoan hỉ, tuân lời. Trương Lương thò vào túi rút ra bức thư đã viết sẵn, nói:

- Thư này, lúc đưa cho Hán vương vào Bao Trung, tôi có hứa sẽ đi cầu giúp người về làm Phá Sở Ðại nguyên soái lấy cái giốc thư này làm bằng. Nếu ai cầm giốc thư này đến tất được trọng dụng ngay. Xin tướng quân cẩn thận chớ để thất lạc.

Hàn Tín tiếp lấy, và nói:

- Cám ơn Tiên sinh tiến cử. Song Sạn đạo đã bị đốt, còn lối nào vào Bao Trung được nữa ?

Trương Lương lại móc túi lấy ra bức họa đồ, giao cho Hàn Tín, và nói:

- Họa đồ này chỉ rõ đường ngang lối tắt, khe núi, chân đeo. Không cần đến Sạn đạo, muốn vào Bao Trung thì theo con đường nhỏ này đến ngã ba, rẽ vầo Trần Thươg qua chân núi Cô Vân, vòng sang núi Kê Ðầu rồi cứ băng theo lối ấy đi độ hai trăm dặm nữa là tới nơi. Sau này tướng quân kéo binh ra bình định Tam Tần tất cũng phải dùng nẻo ấy. Con đường này bí mật lắm, ngay người Hán Trung cũng không ai biết. Thôi, tôi xin giã biệt tướng quân.

Hàn Tín ngạc nhiên hỏi:

- Tiên sinh định đâu ? Không trở lo việc nước sao ?

Trương Lương nói:

- Tôi còn đi dò xét tình hình xem nếu Bá vương dời đô về Bành Thành thì nhiệm vụ tôi còn phải đi du thuyết các chư hầu, khuyên họ bỏ Sở, phò Hán. Hễ chặt bớt được vây cánh của Sở, thì sau này tướng quân phá Sở mới dễ dàng.

Hàn Tín quyến luyến nói:

- Vậy thì mời Tiên sinh ở nán lại đây chơi với Tiểu tử ít hôm để xem cơ sự thế nào. Nay mai Tiểu tử cũng xin cử bộ.

Nhắc lại, Phạm Tăng từ lúc đến Bành Thành, vào yết kiến vua Nghĩa Ðế, và bắt buộc phải thiên đô.

Vua Nghĩa Ðế nói:

- Xưa nay vua ra lệnh cho bề tôi, có lẽ nào bề tôi lại bắt buộc vua. Ta lấy điều nghĩa, chiêu dụ chư hầu, bốn bề ngưỡng vọng, do đó, họ Hạng mới ìập được công lớn. Trước khi vào Hàm Dương, ta có lời ước:

- Ai vào Quan Trung trước thì làm vua. Thế mà Hạng Vũ bội ước xưng vương, tự tiện phong chức cho chưa hầu. Ðó là hành động khi quân, dẫm chân lên vết xe nhà Tần đã gãy đổ, cớ sao không biết thẹn ?

Phạm Tăng tâu:

- Tâu Bệ hạ, thần khổ tâm can gián, nhưng Hạng vương nhất định không nghe. Nay lại sai Quý Bá đến Bành Thành kiến đô, thần vì mệnh chủ không thể không tuân.

Nghĩa Ðế nói:

- Ngươi là quân sư của Hạng Vũ, Hạng Vũ làm sai, lẽ ra phải liều chết can ngăn, sao lại phải tòng mệnh ?

Ngươi chí là đứa tiểu nhân, dua nịnh, không phải là kẻ đại thần lấy đạo thờ vua.

Phạm Tăng hổ thẹn, không dám nói nữa, bái lạy lui ra, rồi viết thư về báo cho Bá vương biết.

Bá vương tiếp được thư, nổi giận, hét:

- Hoài vương chẳng qua là đứa chăn dê, cắt cỏ nơi thôn dã, được ta đem về lập lên làm vua, tôn làm Nghĩa Ðế. Nay đã không biết ơn ta lại còn lên mạt vênh váo, ta phải trừ đi mới được.

Bèn đòi Cửu giang vương là Anh Bố, Hoành sơn vương là Ngô Nhuế, Lâm giang vương là Cung Ngao đến nói:

- Các ngươi đem mấy chiến thuyền vào sông Ðại Giang mai phục, cho người đến bắt vua Nghĩa Ðế phải thiên đô. Rồi đợi khi thuyền đến giữa sông, các ngươi giả cách làm nghiêng thuyền, nhận vua Nghĩa Ðế xuống sông và giết quách đi. Nếu có ai hỏi các ngươi nói: "Vua đi đến giữa sông gặp cơn phong ba chìm thuyền chết đuối".

Ba người lãnh mệnh, thu xếp ra đi. Bá vương viết một phong thư dâng vua Nghĩa Ðế.

Thư như sau:

"Sở Bá vương Hạng Vũ cúi đầu dâng biểu: Tôi, trước phụng mệnh vào đánh nhà Tần, đến Hàm Dưong. Tử Anh chịu trói, giao cả sơn hà xã tắc. Chiến thắng của tôi đã đưa Bệ hạ lên địa vị Nghĩa Ðế, làm chủ thiên hạ. Nay nhận thấy đất Bành Thành chật hẹp, không phải chổ Ðế đô, còn Mân Châu (thuộc tỉnh Hồ Nam) bên tả có hồ Ðộng Ðình, bên hữu có hồ Bành Lãi, non xanh nước biếc, đáng làm chỗ để cho chư hầu tập trung đến chầu, vì vậy muốn thiên đô về đấy. Chẳng ngờ Bệ hạ lại nghe lời tiểu nhân không chìu theo ý. Thiết tưởng cơ nghiệp của Bệ hạ nhờ ai mà có, sao bệ hạ không nghĩ. Tiếp được biểu này xin Bệ hạ ngự giá đi ngay, chớ nên chậm trễ".

Vua Hoài vương xem biểu xong, nói với bá quan:

- Hạng Vũ không giữ ước tất lòng đã phản phúc, không kể tôi thần gì nữa. Nay viết biểu gởi lên,! dùng lời bức bách nếu ta không liệu trước ắt mang tai vạ. Chi bằng chiều ý thiên đô cho xong.

Liền hạ lệnh cho bá quan chọn ngày khởi giá. Xa giá lên đường, dân chúng Bành Thành lũ lượt kéo đến bày hương án lạy đưa, tỏ lòng quyến luyến.

Vua Nghĩa Ðế thấy lòng dân như vậy cũng sa nước mắt, thở dài.

Một hôm, xa giá đến bờ sông, thuyền rồng đã sắp sẳn, vua bỏ đường bộ qua đường thủy, vưa đi đến giữa sông, bỗng có một con bạch ngư rất lớn, cản lại, sóng gió nổi lên dữ dội, thuyền không vượt lên được thủy thủ phải neo thuyền. Ðược một lúc, gió càng mạnh, thổi đứt phăng dây neo, thuyền dạt vào bãi.

Ðêm ấy, vua vừa chợp mắt, thấy năm sắc tường vân sa xuống măt nước, hương thơm ngào ngạt, tiếng nhạc vang rền, có hai vị Kim Ðồng, Ngọc Nữ từ trên không sa xuống, bước vào thuyền quỳ tâu:

- Chúng tôi vâng mệnh Ngọc Hoàng xuống rước Bệ hạ về Long cung tức vị. Hiện giờ bá quan đang chờ sẵn.

Hoài vương ngạc nhiên đáp:

- Không. Hôm nay trẫm thiên đô sang Mân Châu mà.

Kim Ðồng, Ngọc Nữ tâu:

- Tâu Bệ hạ, vua Long cung phụng sắc mệnh Thượng đế, sửa sang cung điện, chờ đợi xe loan, xin Bệ hạ đi ngay cho.

Vua đáp:

- Long cung của Thủy Tề đâu phải côi trần gian ? Ta làm sao ngự trị được ?

Kim Ðồng, Ngọc Nữ tâu:

- Thượng Ðế thương Bệ hạ là người có đức, lẽ ra cho làm Chúa trần gian, song vì hồng phúc của ông Xích Ðế lớn lắm, nên bắt Bệ hạ phải nhường ngôi ấy, xuống Long Cung giữ việc thủy phủ.

Hoài vương toan bước theo hai vị Thiên sứ, sực thấy nước lẫn với trời sóng gió ầm ầm, quang cảnh hỗn loạn, sợ hãi, giật mình thức dậy mới biết chiêm bao, liền gọi các quan hầu đến đoán mộng.

Có viên cận thần tâu:

- Ðã gặp cá đón đường, gió bạt thuyền trôi, bây giờ Bệ hạ lại chiêm bao như thế này thì không phải là điềm tốt.

Ngày mai xin Bệ hạ hồi loan rồi sẽ thương nghị.

Hoài vương nói:

- Xa giá đã khởi hành, đại tín đă truyền bá mà còn trở lại sao được ! Vả lại số trời đã định, không thể tránh !

Hôm sau, Hoài vương thức dậy truyền tiến hành.

Long thuyền đến giữa dòng thấy ba chiếc thuyền của Anh Bố, Ngô Nhuế, Cung Ngao vùn vụt kéo đến, chiêng trống vang trời. Anh Bố đứng trước mũi thuyền nói lớn:

- Chúng tôi phụng mệnh Hạng vương đến đây nghênh giá. Bệ hạ có đồ kim phù, ngọc sách xin để lại đây.

Hoài vương nổi giận mắng:

- Ðồ bất nghĩa ! Bây lại hùa theo Hạng Vũ làm phản à ?

Bọn Anh Bố cầm gươm nhảy qua Long thuyền, chém chết vài thủy thủ. Người trong thuyền khiếp vía.

Hoài vương cả tiếng mắng:

- Thằng giặc Hạng Vũ kia. Mày bất nghĩa như thế còn trời nào dung tha mày.

Nói xong, trầm mình xuống Tràng giang tự vận.

Bao nhiêu người nấp sau thuyền đều bị bọn Anh Bố giết hết.

Sau Hồ Tăng có thơ rằng:

Ngọn cờ lơ láo glữa Tràng giang

Nước mất, thân chìm cảnh thảm thương

Chín suối khôn tan màu lửa hận

Vầng trăng lả tả ánh thê lương

Giết xong Hoài vương, bọn Anh Bố quay thuyền trở lại thấy nơi bờ sông dân chúng kéo đến đông như kiến, trỏ vào mặt mắng:

- Thằng Anh Bố kia ? Mày nghe lời Hạng Vũ giết vua của thiên hạ, còn trời nào dung tha mày ? Chúng ta vì vua Nghĩa Ðế nhất định báo thù.

Anh Bố tức giận truyền quân áp thuyền vào bờ, nhưng gặp gió ngược, nên thuyền đi chậm. Khi đến nơi dân chúng đã di tản hết rồi.
Về Đầu Trang Go down
  • Trả lời chủ đề này

Bài gửi by Admin Wed Apr 22, 2015 6:19 am

Hán Sở tranh hùng Empty Re: Hán Sở tranh hùng

Admin
Admin
Administrator
Administrator

Tổng số bài gửi : 5122
Points : 8388
Reputation : 1360
Join date : 21/11/2014
Đến từ : Tp.HCM

https://ccxiqi.forumvi.com
Hồi 15

Tìm chân chúa, anh hùng cất bước

Giết tiều phu, tráng sĩ đau lòng

Trong số dân chúng ấy, có một ông lão tuổi ngoài tám mươi, tóc bạc da mồi, nhưng còn có vẻ quắc thước lắm. ông lão ấy tên Ðổng Công, học rộng, chuộng đạo đức, cả vùng ai cũng kính mến.

Ðổng Công bàn với dân chúng:

- Chúng ta chờ bọn Anh Bố đi rồi, tìm lấy xác vua làm lễ mai táng, rồi kéo sang Lạc Dương rước Hán vương về làm chủ để trả thù cho Chúa thượng.

Dân chúng đồng thanh hưởng ứng, và nói:

- Chúng tội xin theo lời lão công.

Nói xong, tụ họp hơn vài mươi chiếc thuyền, nhắm dòng hạ lưu tìm vớt xác của Hoài v­ơng đem lên, lập đàn ma chay cúng tế, mà mai táng Hoài vương nơi Mân Châu.

Giữa lúc đó, bọn Anh Bố đã trở về Bành Thành, gặp Phạm Tăng thuật lại đầu đuôi.

Phạm Tăng thở dài, nói:

- Thôi thế thì còn ra gì nữa ! Vua Nghĩa Ðế do tôi và Vũ Tín Quân lập lên để trấn an nhân tâm, nay giết đi mang tiếng trong thiên hạ, nếu còn dời đô về Bành Thành nữa sao khỏi thiên hạ chê cười. Chúng ta phải trở về Hàm Dương can ngăn việc thiên đô mới xong.

Quý Bá nói:

- Khi trước Hàn Sinh can gián, bị Bá vương giận bỏ vào vạc dầu, bây giờ ai còn dám ngăn cản nữa ?

Phạm Tăng nói:

- Không liều chết ngăn cản thì rồi đây chúng ta sẽ bị chết cả bọn.

Nói xong, lưu Quý Bá ở lại Bành Thành, còn bao nhiêu thảy đều về Hàm Dương, vào yết kiến Bá vương.

Bá vượng đang thu xếp hành trang, thôi thúc bá quan hạn trong bốn hôm nữa sẽ đăng trình, xảy được tin Phạm Tăng và Anh Bố trở về tâu việc giết vua Nghĩa Ðế.

Bá vương thích chí nói:

- Thế là ta đã trừ được cái bệnh trong gan phổi rồi.

Phạm Tăng tâu:

- Bệnh gan phổi của Bệ hạ không phải ở vua Nghĩa Ðế mà là ở Hán vương. Bệ hạ trừ được Hán vương mới gọi là chữa được bệnh. Ngày nay Bệ hạ dời đô về Bành Thành ngày mai Hán vương dời đô ra Hàm Dương đó.

Bá vương lắc đầu nói:

- Quân sư chớ lo. Ðường Sạn đạo đã đốt rồi, quân Tam Tần ráo riết phòng bị, dẫu Hán vương có cánh cũng không thoát ra khỏi đất Ba Thục được.

Phạm Tăng tâu:

- Nếu Bệ hạ dời đô về Bành Thành tất Tam Tần trễ biếng, Hán vương thừa cơ hội ấy tấn binh. Ðường Sạn đạo đã đốt nhưng lòng người đã quyết, việc sửa chữa chẳng mấy chốc.

Bá vương tỏ vẻ bất bình nói:

- Hiệu lệnh đã ban, văn vũ đã chuẩn bị chỉnh tề, không thể sửa đổi được nữa. Quân sư chớ nói nhiều lời.

Phạm Tăng thấy Bá vương không nghe lời mình, hổ thẹn bước ra buồn bã sắp sửa hành trang để cùng các quan theo hộ giá.

Nhắc lại Hàn Tín từ khi tiễn chân Trương Lương đi rồi lòng hồi hộp, mấy đêm không ngủ được, lo chuẩn bị hành trang lên đường.

Trước khi ra đi, Hàn Tín ghé nhà Trần Bình thăm viếng.

Trần Bình thảy Hàn Tín đến, mừng rỡ đón chào và hỏi:

- Chấp kích lang sang chơi chắc có chuyện lạ ! Hay là cá sắp hóa rồng, rồng toan vượt bể ?

Hàn Tín biết Trần Bình không ưa gì Bá v­ơng, tìm lời nói thử:

- Bá vương dời đô về Bành Thành tất Hán vương thôn tính Tam Tần. Ðất Hàm Dương nầy e không giữ được. Ðô úy nghĩ sao ?

Trần Bình đáp:

- Bá vương lấy uy vũ hàm gốc, nấu Hàn Sinh, giết Nghĩa Ðế, lại thiên đô về Bành Thành, tôi tưởng cơ nghiệp không thể nào yên được. Trong chư hầu, chỉ có Hán vương là người đại lượng, có thể mưu đồ việc lớn.

Chấp kích lang ở đây không ra gì, sao không tìm nơi khác tiến thân, tội gì sống trong khổ cực ?

Hàn Tín đưa mắt nhìn quanh rồi nói nhỏ:

- Tôi có ý đó đã lâu, không dám giấu Ðô úy, ngặt vì quan san cách trở, đồn ải canh phòng rất nghiêm, không có giấy thông hành không thể nào đi lọt.

Trần Bình thở dài nói:

- Việc ấy không khó. Trong dinh tôi có văn thư ấn tín tôi sẽ cấp cho một đạo thông hành, có thể tự do đi lại. Nếu đồn ải nào hỏi thì cứ nói rằng: "Bá vương sai vào Bao Trung thám thính".

Hàn Tín đứng dậy nói:

- Ða tạ Ðô úy. Ngài cho Tín tôi mảnh giấy nầy thực quý hơn ngàn vàng. Nếu Tín tôi gặp thời, đạt danh vọng, nguyện không quên ơn tri ngộ.

Trần Bình nói:

- Ngài cứ an tâm, lập chí. Sau nầy tôi cũng phải tìm chỗ dung thân, chừng ấy ngài ra ơn tiến cử tôi thì còn gì quý hơn.

Hàn Tín lãnh giấy thông hành, từ giã về dinh. Tối hôm ấy dặn bọn gia nhân:

- Ta bận việc đi thăm người bạn, chúng bây ở nhà phải canh phòng cẩn mật. Nói xong, lên ngựa ra đi. Vó câu khấp khểnh vầng trăng chênh chếch mái đầu. Anh hùng yên ngựa đâu quản gió sương, bóng Hàm Dương khuất dần sau những rặng núi đen sì, giữa những màn sương lạnh.

Hàn Tín ra đi đã hai hôm thế mà tuyệt nhiên không ai hay biết.

Bọn gia nhân thấy Hàn Tín không về, bàn với nhau:

- Quan Chấp kích lang đi đâu không về, chúng ta phái vào báo cho quân sư kẻo mang vạ.

Chúng kéo đến dinh Phạm Tăng, bẩm:

- Chúng con là gia nhân ở dinh quan Chấp kích lang. Cách đây vài hôm có người khách lạ đến chơi, cùng với quan Chấp kích lang đàm đạo, cách đó mấy hôm, quan Chấp kích lang lại đi biệt không về. Vì vậy, chúng con đến đây cấp báo.

Phạm Tăng thất kinh, dậm chân, thở dài than:

- Thôi ! Cọp đã vào rừng rồi ! Ta còn mong gì mưu việc thiên hạ. Trước đây ta đã tâu xin Bá vương một là dùng, hai là giết, thế mà Bá vương không nghe, nay còn hối sao kịp.

Nói xong, vội vã vào triều, tâu với Bá vương:

- Hàn Tín trốn rồi, bệ hạ phải cho người đuổi theo bắt lại, nếu không, nghiệp cả khó bền.

Bá vương giận dữ, vỗ án hét:

- Ðứa thất phu ấy lại dám bỏ ta mà đi ư ?

Phạm Tăng nói:

- Hàn Tín là kẻ kiến thức, có thể giúp Bệ hạ làm nên đại sự, thế mà Bệ hạ đã không dùng, còn để cho hắn trốn, thất là bất lợi.

Bá vương nói:

- Nó không có thông hành thì làm thế nào ra khỏi Quan Trung được ?

Liền gọi Chung Ly Muội đến bảo:

- Ngươi dẫn hai trăm quân khinh kỵ, đuổi theo bắt Hàn Tín về đây, bầm thây làm gương cho kẻ khác.

Chung Ly Muội lĩnh lệnh dẫn quân đến cửa quan An Bình thì được tin Hàn Tín đã qua khỏi cửa quan hai hôm rồi.

Chung Ly Muội trách cứ quan Tổng Trấn. Quan Tổng trấn nói:

Hàn Tín hiện có văn thư, ấn tín rõ ràng, nói là Bá vương sai đi hội Tam Tần bàn việc khẩn cấp. Tôi làm sao dám ngăn cản ?

Chung ly Muội nói:

- Bây giờ quan Tổng trấn liệu có cách gì bắt Hàn Tín lại chăng ?

Quan Tổng trấn lắc đầu, đáp:

- Tướng quân khó mà theo kịp. Bây giờ chỉ có cách phi báo cho Tam Tần mang quân truy mã, may ra mới bắt được

Chung Ly Muội nghe lời, phi hịch cho Tam Tần, khiến truy nã rất gấp, rồi trở về Hàm Dương tâu lại với Bá vương.

Bá vương, nói:

- Ðứa thất phu ấy, dẫu có đi đâu lại làm nên trò trống gì mà ta phải bận tâm .

Tức truyền lệnh cho bá quan văn võ sắp sửa xe ngựa thiên đô đến Bành Thành. Chỉ để Tnmg Công ở lại giữ Hàm Dương mà thôi.

Nhắc lại Hàn Tín từ khi thoát ra khỏi cửa An Bình, thẳng tới Tản Quan, đến một ngã ba kia đường chật hẹp, ngoằn ngoèo, liền giở bản đồ ra xem, tìm lối tắt vào Bao Tnmg.

Bỗng có một viên tiểu tướng tay cầm hỏa bài, xông ngựa tới hỏi:

- Người kia ! Ði đâu ? Có giấy thông hành chăng ?

Hàn Tín xem qua, biết là người của Tam Tần, sai đi lùng bắt mình, liền giả cách nói:

- Tôi họ Lý, hiện có việc sang Bao trung, giấy thông hành có ghi rõ.

Nói xong, rút giấy thông hành trao cho viên tiểu tướng.

Viên tiểu tướng khúm núm giở ra xem, Hàn Tín thừa cơ rút thanh bảo kiếm đeo trong lưng, chém phăng một nhát, tiểu tướng rơi đầu.

Hàn Tín vội vã. buồng cương thượng lộ: Ði chưa bao xa, lại có bốn tráng sĩ đuổi theo bắt. Hàn Tín cũng theo cách ấy, cho mỗi người một nhát gươm đưa hồn về địa phủ. Ðoạn, quay ngựa nhắm hướng Tây mà chạy. Chay được một lúc Hàn Tín nghĩ thầm:

- Ta vừa giết mấy tên hỏa bài của Tam Tần, nếu cứ đường này thẳng tiến, e họ đuổi theo bắt gặp.

Liền rẽ cương sang một con đường hẻm về hướng Tây Nam.

Con đường này chung quanh núi rừng mù mịt, suối reo, đá dựng, không làm sao cưỡi ngựa được, con đường bị nghẽn, không còn lối nào sang đò Trần Thương được Hàn Tín buồn bã, lơ láo đứng nhìn bốn mặt, đâu đâu cũng rừng núi chập chùng.

Tình cờ gặp một tên phu, đang kẽo kẹt trên vai một gánh củi nặng, mò mẫm qua triền núi. Hàn Tín mừng rỡ, hỏi vội:

- Thưa lão trượng làm ơn chỉ dúm cho tiểu tử đường ra Trần Thương.

Lão tiều nghe hỏi, để gánh củi xuống, chỉ tay về phía trước, nói:

- Cứ dắt ngựa băng rừng đi tới sang rặng núi đá bên kia đến rừng Tiểu Tùng. Ði hết rừng ấy là đến khe Loan Thạch, trên khe có cầu đá, đi khỏi cầu đá thì có núi Nga Mi, phải trèo qua núi ấy mới có lối đi, nhưng phải khó khăn lắm. Ði một quãng nữa đến núi Thái Bạch, dưới chân núi có hàng cơm phải trọ lại đấy dùng cơm tối, sáng sớm mới lên đường. Hỏi lối sang núi Cô Vân đến núi Lưỡng Cước, sang đò Bắc Thủy, tới bến Hàng Khê. Ðấy là địa phận Nam Chính rồi. Nhưng nhớ phải đi đến nơi trọ trước trời tối, vì vùng núi ấy có con mãng xà rất nguy hiểm, ông phải cẩn thận lắm mới tránh được tai nạn.

Hàn Tín giở bản đồ ra xem, thấy không sai một nét nào cả. Hàn Tín cảm ơn lão tiều lên đường cất bước, giữa lúc ấy lão tiều cũng ì ạch gánh củi tên vai, xuống núi.

Hàn Tín vừa đi vừa nghĩ:

- Nếu Chương Hàm cho người truy nã, theo chân mình đến ngã ba gặp lão tiều này, và lão tiều lại chỉ đường như vậy thì mạng ta khó thoát. Vả chăng, mấy hôm nay ta lặn suối, trèo non người mỏi.ngựa mệt, vô phúc mà gặp truy binh, đành phải bó tay chịu chết, chứ chống cự sao nổi ! Thôi, thà ta chịu tiếng vong ân giết lão tiều phu này đi, để tuyệt lộ truy binh.

Nghĩ rồi liền quay ngựa lại gọi:

- Hời lão tiều, xin lão dừng chân cho tôi hỏi thêm điều này nữa.

Tiều phu nghe gọi, quay gánh lại. Hàn Tín bước đến chém một gươm đứt làm đôi, rồi mang xác đem vùi nơi sườn núi.

Nhìn nấm mồ oan, Hàn Tín rơi lệ, than:

- Lão tiều hỡi ! Tín không phải là phường bất nhân, bạc nghĩa, chỉ vì sợ lỡ việc lớn, đành Phải hy sinh mạng lão. Mai sau Tín này được thành thân, xin đến đây làm lễ hộ tang, lập đền thờ cúng. Hồn lão có linh thiêng xin phò hộ bước bôn đào của Tín này.

Xác tiều phu đã vùi kín, Hàn Tín lên nglra, gạt lệ bôn hành.

Người sau có thơ rằng:

Kiếm báu trao tay chửa giết thù

Giết người.ân nghĩa: lão tiều phu

Hàn quân vì muốn mưu thiên hạ

Sao nỡ đem ân đáp nghĩa thù

Hàn Tín theo lời dặn của lão tiều, băng qua núi đá, sang rừng Tiểu tùng, đến khe Loan Thạch, và vất vả mấy ngày mới tới núi Thái Bạch. Dưới núi có hàng cơm, Hàn Tín xuống ngựa bước vào, gọi chủ quán đem rượu thịt ra ăn.

Rượu nồng hơi ấm, rừng núi u buồn, xa xa lơ thơ vài vầng mấy bạc lồng bóng xuống khe sâu, bơ vơ như bước chân dũng sĩ chưa định hướng, Hàn Tín thở dài, chợt nghĩ đến cái chết của tiều phu vừa rồi, bất giác ngâm một bài thơ, rồi sẵn dịp mượn bút mực để lên vách đá. Thơ rằng:

Dần bước đỉnh non cao

Gặp ghềnh theo lối nhỏ

Mây nghiêng mái trời xanh

Suối tuôn ghềnh sỏi đỏ

Ngoắt ngoéo đến muôn trùng

Gớm thay ! Thật hiểm trở !

Rừng thẳm càng đi sâu

Càng đến nơi tuyệt lộ !

Trời xui gặp lão tiều

Chỉ đường đi rất rõ

Ân đức biết chừng nào ?

Nghìn vàng chưa báo bổ !

Ta vì lòng lo riêng

Sợ quân theo truy nã

Sức yếu và thế cô

Vào lưới không thể gỡ !

Cắn răng rút gươm thiêng

Giết Tiều, vùi xuống hố!

Hỡi ơi Lão tiều phu

Linh thiêng xin phù hộ

Ta há bạc tình chi

Chỉ lo, về hậu lộ

Lão sống chỉ vào rừng

Suốt đời thêm cực khổ !

Ta sống để mai này

Ðem thân đi diệt Sở

Sở diệt, thiên hạ yên

Muôn dân khỏi thống khổ

Ấy vậy kẻ vong tình

Xin lão chớ oán nộ !

Mai sau được thành công

Quyệt lòng đền báo bổ

Con lão ta xin nuôi

Phú quý chung hưởng thọ

Vành trăng lả lướt soi

Chập chùng mây mờ tỏ

Hồn lão đến đây chăng ?

Chứng minh lòng ta đó !

Hàn Tín đề thơ xong, ngồi gật gù đánh chén, ngâm đi ngâm lại bài thơ mãi không thôi. Thình linh, bên ngoài có một tráng sĩ, vung kiếm xông vào, xem qua bài thơ một lượt rồi quay lại hỏi Hàn Tín.

- Anh này muốn chết sao ? Ðã bỏ Sở bôn đào vào đây thế mà còn dám giết người dọc đường, đề thơ lên vách ! Nếu tôi bắt anh đem nạp cho Bá vương thì anh liệu làm sao ?

Hàn Tín thất kinh, đẩy ly rượu sang một bên, đứng dậy nói:

- Nếu tôi không lầm, tráng sĩ là người Bao Trung, làm dân nước Hán, cớ sao lại có ý ấy ?

Tráng sĩ cười lớn, kéo Hàn Tín ngồi xuống ghế, nói:

- Tôi nói đùa đấy, xin Tướng quân hỷ xả cho. Tôi vốn họ Tân tên Kỳ, người Phú Phong, mấy năm nay vì lánh nạn nhà Tần nên theo cha tôi là Tân Kim, đến đây mở hàng cơm độ nhật. Từ thuở bé, tánh ưa cung kiếm, nên mải ham mê săn bắn, chưa nghĩ đến việc tiến thân, lập nghiệp. Ðêm vừa rồi, tôi nằm chiêm bao, thấy một con hổ từ đỉnh núi cao nơi phương Ðông chạy đến, nằm trên đám cỏ. Với giấc mộng ấy, tôi đoán chắc hôm nay thế nào cũng gặp được quý nhân. Vì vậy suốt ngày tôi ở nhà chờ tiếp đón.

Hàn Tín nghe nói mừng rỡ đứng dậy cầm tay Tân Kỳ, cùng ngồi chung bàn đấu chén..

Rượu ngà ngà say, Hàn Tín nói:

- Tôi xem tráng sĩ không phải là kẻ giá áo, túi cơm. Nay thiên hạ đang loạn lạc, Hán vương chiêu hiền đãi sĩ, sao tráng sĩ không bái yết, đoạt ấn phong hầu, để thỏa lòng hào kiệt ?

Tân Kỳ nói:

- Tôi có ý ấy đã ìâu, song nghĩ rằng Hán vương muốn thâu thiên hạ tất phải đem quân dẹp Tam Tần. Mà dẹp Tam Tần không có con đường nào khác hơn là đường ra núi Thái Bạch này. Vậy xin Tướng quân vào trước, lúc nào Tướng quân đem binh ra đây tôi sẽ vin tháp tùng vậy.

Hàn Tín ngạc nhiên hỏi.

- Ðường ra Tam Tần không còn đường nào khác hơn sao ?

Tân Kỳ nói:

- Xưa nay chỉ theo đường Sạn đạo. Bây giờ Sạn đạo đã bị đốt rồi, người Sở cũng như người Tần, không ai biết con đường này cả. Nếu quân Hán theo con đường này kéo ra, xuất kỳ bất ý đánh một trận, tất Tam Tần phải mất.

Hàn Tín nói:

- Tráng sĩ quả là kẻ kiến thức. Nhưng, xin chớ lộ việc này với ai. Lúc tôi đem binh diệt Tần sẽ nhờ tráng sĩ làm hướng đạo .

Tân Kỳ mời Hàn Tin vào nhà trong, gọi mẹ và vợ ra giới thiệu. Cả nhà vui vẻ.

Hàn Tín và Tân Kỳ kết, làm anh em. Ðêm ấy cả hai ngủ chung giường, và mờ sáng, Hàn Tín giã biệt.

Tân Kỳ nói:

- Phía trước là núi Cô Vân, núi Lưỡng Cước, đường sá hiểm trở, lại có con mãng xà rất lớn. Khách đi đường không khéo sẽ nguy đến tính mệnh. Vậy tôi xin đưa Tướng quân đến bến Hàn Khê rồi sẽ trở về.

Hàn Tín từ chối, nói:

- Thôi xin cám ơn hiền đệ, làm như thế quá phiền phức.

Tân Kỳ nhất định không nghe, gọi gia nhân đến dặn:

- Chúng bây ở nhà trông nom quán hàng, khoản đãi khách khứa. Ta đi tiễn Hàn tướng quân vài hôm sẽ về.

Dứt lời, cầm một ngọn giáo, đeo một túi cung, theo Hàn Tín ra đi.

Không có gì vui vẻ hơn khi đường xa được người tri ngộ. Hai người trao đổi tâm tình, quên cả đường xa mệt nhọc Chẳng bao lâu đã đến bến Hàn Khê.

Tân Kỳ chỉ tay ra phía trước nói:

- Ở đây chỉ còn cách Bao Trung chừng vài dặm. Vậy tiểu đệ xin trở bước.

Hàn Tín bùi ngùi cầm tay nói:

- Chúng ta hẹn ngày tái ngộ, và ngày ấy sẽ là ngày thanh gươm yên ngựa, đem sức tài thị thố giữa ba quân.

Xưa nay, những cảnh tương biệt bao giờ cũng đeo sầu, và có bịn rịn đến đâu cũng phải đến phút giây dứt bỏ.

Hàn Tín lên ngựa ra roi, vó câu khấp khểnh. Tân Kỳ đứng nhìn theo một lúc, rồi quay lại đường cũ trở về chân núi Thái Bạch.
Về Đầu Trang Go down
  • Trả lời chủ đề này

Bài gửi by Admin Wed Apr 22, 2015 6:20 am

Hán Sở tranh hùng Empty Re: Hán Sở tranh hùng

Admin
Admin
Administrator
Administrator

Tổng số bài gửi : 5122
Points : 8388
Reputation : 1360
Join date : 21/11/2014
Đến từ : Tp.HCM

https://ccxiqi.forumvi.com
Hồi 16

Yết Ðằng Công, Hàn Tín tỏ can trường

Vào trướng phủ, Tiêu Hà phục hào kiệt

Nam Chính non nước huy hoàng, cảnh sắc chẳng khác nào một bức tranh thiên tạo. Hàn Tín vừa đi vừa ngắm cảnh, chẳng bao lâu đã vào chốn kinh thành. Nơi đây chợ búa đông đúc, buôn bán lao đao, dân chúng sống trong thanh bình thịnh trị.

Hàn Tín vào một quán trọ, chủ quán ra tiếp đón niềm nở. Hàn Tín đưa hành trang cho chủ quán và dặn cất cẩn thận.

Chủ quán mĩm cười nói:

- Quý khách cứ an tâm, xứ Hán Trung chúng tôi không phải như các xứ khác. Dẫu của bỏ rơi ngoài đường còn chẳng ai lượm, huống hồ vật cất trong nhà. Xin ngài nghỉ ngơi cho khỏe rồi ra phố tiêu khiển.

Chiều đến, Hàn Tín lên ngựa, đi dạo xem phong cảnh Hán Trung. Cửa Kiếm các uy nghi hướng về phương Nam, đường Sạn đạo bắt sàn, uốn khúc quanh co như khúc ruột trước mặt là Ðại Giang, mông mênh sóng vỗ, đàng sau là núi Cẩm Bình, Nga Mi sừng sững như tháp Quan âm, bao bọc vùng Châu Kỳ, Châu Tương, đồng rộng ước hai ngàn dặm. Lại thêm ngọn núi Nam Mai trắng tợ tuyết, ngọn suối Bộc Bố chảy ngoằn ngoèo, có ổ Bàn Vân có lầu Thiên Hán có nhà Thạch trụ, có dinh Tứ Chiến, cảnh vật muôn màu tươi thắm, tô điểm cho giải non sông ấy một sắc thái hùng khí thiên nhiên.

Hàn Tín xem mãi không chán mắt, giục ngựa thẳng đến một tòa nha môn kia, ngoài cổng có treo tám biển đề ba chữ "Chiêu hiền quán" hai bên lại có treo hai tấm yết thị rất lớn, viết như sau:

1) Am hiểu lược thao, tinh thông binh pháp sẽ được chọn làm chức Nguyên nhung

2) Dũng cảm hơn người đủ sức phá thành chém tướng, sẽ chọn làm Tiên phong

3) Tài hay khinh khiển, võ nghệ siêu quần, sẽ được chọn vào chức Tán kỵ

4) Thông hiểu thiên văn, thạo việc phong vũ, sẽ chọn làm chức Tân hoạch.

5) Tinh tường địa đạo, thấu triết địa dư sẽ được chọn làm chức Hướng đạo.

6) Mực thước công bằng, tánh tình ngay thẳng, sẽ chọn làm chức Kỹ lục.

7) Cư biến tài tình, động việc khéo lo, sẽ chọn làm chức Nghị quân.

Cool Nói năng hoạt bát, ứng đối nhanh lẹ, sẽ chọn trào chức Thuyết khách

9) Tính toán tinh tường, một mảy không lộn, sẽ chọn làm chức Thượng thư.

1 0) Sách vở xem rộng, hỏi đâu biết đấy, sẽ chọn làm chức Bác sĩ.

11) Chuyên tập sách thuốc, mạch lục tinh thông, sẽ chọn vào chức Quốc thủ.

12) Giỏi nghề len lỏi, thạo việc rình mò, sẽ chọn làm Thám tử.

13) Chưởng quản tiền lương, tiêu pha có độ, sẽ chọn làm chức Quân xướng.

Trong 13 khoản này, ai giỏi về khoản nào cứ tới Quán Chiêu Hiền kê khai tên họ, trình quan khảo thí. Nếu thực tài sẽ được trọng dụng ngay không phân quý tiện. Hễ hết lòng vì nước tất đoạt bước thang mây.

Cáo thị Quốc dân.

Hàn Tín đọc xong bản chiêu hiền, liền hỏi thăm dân chúng, ai là chủ tòa nha môn ấy.

Dân chúng đáp:

- Ðằng công tên là Hạ Hầu Anh được Hán vương phong làm Nhữ Nam Hầu, lo việc chiêu hiền đãi sĩ đó.

Hàn Tín nghĩ thầm:

- Nếu mình mang ngay cái giốc thư của Trương Lương đến trình với Tiêu Hà xin tiến cử thì ra mình hèn quá ! Tại sao ta không thi thố tài năng theo hệ thống khảo thí như mọi người, đế tỏ tài học của mình ?

Liền biên tên họ, quán chỉ, nạp vào nha môn, xin yết kiến Ðằng công.

Ðằng công nghĩ thầm:

- Người này ta nghe tiếng đã lâu, vả lại, từ ngàn dặm, bỏ Sở mang đây hẳn có chí lớn.

Bèn cho quân mời Hán Tín vào, hỏi:

- Hiền sĩ đang phò Sở, vì sao lại dong ruổi đến đây ?

Hàn Tín thưa:

- Hạng vương không dùng, nên tôi bỏ chỗ tối tìm đến chỗ sáng.

Ðằng công hỏi:

- Ðường Sạn đạo bị đốt, núi rừng hiểm trở, hiền sĩ làm sao đến đây được ?

Hàn Tín đáp:

- Bẩm Ðại nhân, đường sá dẫu hiểm trở đến đâu cũng không cản được chí hướng con người.

Ðằng công khen:

- Thế thì hiền sĩ quả là người có chí ? Vậy hiền sĩ đã xem bản văn chưa ?

- Thưa đã.

- Theo các khoản ấy hiền sĩ giỏi về khoản nào ?

Hàn Tín do dự một lúc rồi đáp:

- Mười ba khoản ấy vẫn chưa đủ.

Ðằng công ngạc nhiên hỏi:

- Còn thiếu khoản gì, theo ý hiền sĩ ?

Hàn Tín thưa:

- Còn thiếu một khoản: "văn võ song toàn, thông hiểu vũ trụ, ra tướng vũ, vào tướng văn, trăm trận trăm thắng, lấy thiên hạ như trở bàn tay, đũ sức làm Phá Sở Nguyên Nhung... ! ". Nếu Ðại nhân muốn sát hạch Tín thì phải thêm khoản ấy, còn như mười ba khoản kia chỉ là tài mọn riêng tay, dành cho những người thường, có gì đáng kể.

Ðằng công nghe nói giật nẩy người, mời Tín an tọa, và hỏi:

- Lâu nay nghe tiếng ngài, nay mới hân hạnh được hội kiến, quả thật lời đồn chẳng sai. Ngài đến đây không những do hồng phúc của chúa công tôi, mà còn đem lại hạnh phúc cho thiên hạ nữa. Vậy xin ngài vui lòng chỉ giáo.

Hàn Tín khiêm nhượng đáp:

- Ðại nhân đã rộng lượng, Tín này mới dám tỏ lời:

- Ðời nay làm tướng chỉ học thuộc lòng binh pháp mà không biết sử dụng thích đáng binh pháp. Như vậy dẫu có học thuộc hết Tôn, Ngô nhớ kỹ thao lược cũng vô ích ! Làm tướng giỏi phải biết học và biết dùng.

Ðằng công hỏi:

- Thế nào là biết dùng ?

Hàn Tín đáp:

- Tôi xin đan cử việc này: "Xưa, nước Tống có anh chàng học được môn thuốc gia truyền gọi là Quy thủ dược. Phương thuốc đó chữa chứng cóng tay về mùa đông giá:rét hiệu nghiệm như thần. Hễ xoa vào tay thì không còn biết rét là gì nữa. Nhà anh ta ở gần sông, làm nghề thợ giặt, dẫu trời lạnh đến đâu anh cũng không sợ, và lấy cái nghề ấy làm kế sinh nhai, cha truyền con nối. Một hôm, có người khách mang một trăm nén vàng đến mua phư­ơng thuốc ấy. Anh ta suy hơn tính thiệt rồi nói với bọn gia nhân, làm nghề giặt chẳng qua kiếm gạo hàng bữa, chứ khi nào giàu được, chi bằng ta bán quách phương thuốc cho người này, lấy một trăm nén vàng, sống phong lưu suốt đời. Bàn xong, anh ta nhận lấy vàng, đem phương thuốc trao cho khách. Người khách được phương thuốc, trở về nước Ngô, gặp lúc Ngô, Việt đang đánh nhau, trời đông rét mướt quân Ngô cóng tay không thể nào cầm vũ khí được Người khách đem thuốc vào yết kiến vua Ngô, thoa thuốc vào tay quân sĩ, tức thì không ai còn biết rét nữa, tung vũ khí đánh quân Việt chạy tán loạn", ấy vậy, cùng một thứ thuốc mà người Tống dùng chỉ để làm nghề thợ giặt, còn người Ngô dùng lại dẹp được giặc, đem lại quốc hùng, dân an.

Ðằng công nghe xong, nói:

- Hiền sĩ quả là một thiên tài. Nhưng tại sao n­ớc Sở lại không dùng ?

Hàn Tín nói:

- Thưa ngài, Bá Lý Hề ở nước Ngu, nước Ngu bị mất, sang nước Tần, nước Tần được xưng vương. Như vậy đâu phải Bá Lý Hề ngụ tại nước Ngu, mà trí ở nước Tần ?

Người tài bao giờ cũng có ích cho nước nhà, chỉ khác ở chỗ biết dùng hoặc không biết dùng mà thôi. Tín tôi ở Sở đã lâu dâng sớ tỏ bày hơn thiệt, thế mà Hạng Vũ không dùng, nên Tín tôi mới bỏ Sở đến đây.

Ðằng công hỏi:

- Nếu Hán vương dùng ngài, ngài sẽ làm gì để thỏa mãn chí hướng ?

Hàn Tín nói:

- Tôi có thể giúp Hán vương tính thiên hạ. Trước hết lấy Tam Tần, sau đánh chư hầu, cắt hết vây cánh của Hạng vương rồi mới diệt Sở. Sở đã diệt, tất gồm thâu thiên hạ. Tôi chỉ sợ ngài tiến cử tôi không nổi, và Hán vương không biết dùng tôi mà thôi.

Ðằng công lắc đầu nói:

- Ngài nói quá lắm, tôi e việc làm không kịp lời nói chăng ? Vả như Hạng Vũ sức địch muôn người, binh hùng tướng mạnh, chỉ trong ba năm trời dựng nên nghiệp cả, bốn bể quy hàng, tự cổ kim chưa ai hơn đặng, hiền sĩ dám khinh thường sao ?

Hàn Tín nói:

- Không phải Tín tôi dám khoe, nếu nói mà không làm được còn gì thẹn hơn đối với lòng mình. Người Hán cho Hạng vương là vô địch, song với Tín tôi, tôi coi Hạng vương chỉ là một tuồng trẻ mi, không có gì đáng sợ.

Ðằng công nói:

- Thế thì thao lược hiền sĩ chắc có lẽ giỏi lắm nhỉ ?

Hàn Tín nói:

- Cái lối làm tướng phải học nhiều sách. vở, biết lẽ được thua, trên thông thiên văn, dưới hiểu địa lý, còn như giỏi thao lược cũng chưa đủ.

Ðằng công liền đem sách Lục thao, Tam lược đưa cho Hàn Tín xem. Hàn Tín không cần nhìn vào sách, ngồi đọc một lượt, từ đầu đến cuối không sai chữ nào. Lại đem nhâm, cầm, độn, giáp ra nói, miệng như nước chảy mây trôi, chẳng bao giờ dứt.

Ðằng công ngồi nghe Hàn Tín ứng đối từ sớm đến chiều vẫn chưa hết. Ðằng công nói:

- Cứ như tài học của hiền sĩ, không ai bỏ rơi được.

Ngày mai tôi xin vào tâu với Hán vương.

Hàn Tín nói:

- Xin đại nhân thư thả, để cho tôi có dịp vào yết kiến Tiêu Thừa Tướng đã, rồi hai ngài cùng tiến cử, thì Hán vương mới trọng, và Tín tôi mới có danh.

Ðằng công nói:

- Hiền sĩ nói phải lắm, chiều hôm nay tôi xin vào hầu Thừa Tướng trước, rồi hiền sĩ sẽ vào sau. Thế nào Thừa Tướng cũng vui lòng cùng hiền sĩ hội kiến.

Hàn Tín cáo từ trở về quán trọ.

Chiều hôm ấy, Ðằng công sang Tiêu Hà, thuật chuyện Hàn Tín bỏ Sở về Hán, và đã đem tài năng cầu tiến thân.

Tiêu Hà nói:

- Tôi nghe tiếng người ấy đã lâu, trước kia sống trong cơ hàn, lấy nghề câu cá nuôi thân, thường xin cơm Phiếu mẫu, lại chịu nhục luồn trôn Ðỗ Trung giữa chợ, thiên hạ đều chê cười cho là thằng nhát, sau chống gươm về Sở Hạng vương phong hàm Chấp kích lang. Phạm Tăng tiến cử nhiều lần, nhưng Hạng vương nhất quyết không dùng. Dĩ vãng người ấy như thế chưa chắc Hán vương đã chịu dụng.

Ðằng công nói:

- Tiếc thay một nhân tài như vậy mà không có dịp để thi thố tài năng. Tôi chắc người này nếu được trọng dụng hẳn làm nên việc cả.

Tiêu Hà nói:

- Thế thì mai ngài mời Hàn Tín đến đây chơi, xem thế nào ?

Hôm sau, Ðằng công sai quân đến nhà trọ, mời Hàn Tín đến yết kiến Tiêu Hà.

Ðến nơi, cổng kín tường cao, thâm nghiêm vô hạn, phải nhờ quan Tư hậu vào bẩm trước.

Qua một lúc, có tên Thơ lại bước ra nói:

- Xin mời hiền sĩ vào.

Hàn Tín vội theo chân vào phủ Thừa Tướng. Vào đến nơi, Hàn Tín đứng dưới thềm làm lễ, Tiêu Hà mời vào công đường, nói:

- Tôi vừa nghe Ðằng công khen hiền sĩ là bậc anh tài, nay lại hạ cố đến đây, tôi lấy làm vạn hạnh..

Hàn Tín nói:

- Tín tôi ở Sở, nghe Hán vương là bậc minh quân, Thừa Tướng là người hiền đạt, nên từ nghìn dặm đến đây.

Trước tiếp Ðằng công lấy làm phật ý, nay gặp Thừa Tướng bỗng nhiên muốn về điền lý tiêu dao, không thích đem thân chịu nhục.

Tiêu Hà nói:

- Hiền sĩ đến đây cốt đem chí bình sinh, cứu dân giúp nước, cớ sao chưa gì đã thoái bộ ?

Hàn Tín nói:

- Tôi vào tiếp Thừa Tướng với ý nghĩa cao xa, chứ đâu phải vì bả vinh hoa, đem thân quy lụy ? Xưa vua nước Tề muốn nghe gảy đàn sắt, nước Tần có người gảy đàn hay, vua Tề hai ba lần sai người đến triệu. Một hôm, người ấy đến nước Tề, vua Tề ngồi trong cung, đòi người ấy vào gảy đàn, người ấy không bằng lòng gảy, nói: "Nếu vua không thích, tôi không bước chân đến sân nhà vua. Nếu vua thích thì phải bày đàn, đốt hương, hết lòng kính cẩn, tôi mới đem hết tài ra làm thỏa ý nhà vua. Nay vua ngồi, tôi đứng, đãi tôi như kẻ hầu, hà tất tôi phải chiều ý vua làm chi !" ấy, người gảy đàn còn giữ tư cách của mình, huống hồ một kẻ hào kiệt nhất đời. Thừa tướng đang lúc vì nước cầu hiền, lẽ phải bắt chước Chu cũng, đang ăn cũng phải nhả cơm, đang gội đầu cũng phải vẩy tóc nghênh tiếp hiền sĩ thì mới thu phục được anh tài hết lòng giúp sức. Tín tôi đến đây, Thừa tướng tiếp đãi một cách ngạo mạn, nên không muốn ở đây một giờ nào nữa.

Tiêu Hà vội vàng đứng dậy mời Hàn Tín vào nhà trong, dắt lên thượng tọa, chắp tay nói:

- Hà tôi thất lễ với hiền sĩ, xin hiền sĩ hỷ xả cho, và xin vui lòng chỉ giáo.

Hàn Tín nói:

- Ngài vì nước cầu hiền, tôi vì nghĩa vụ đến đây, chúng ta đều là kẻ đứng ngoài quan niệm tư kỷ. Ðã hiểu nhau rồi, việc lễ nghĩa đâu còn trọng nữa ! Thừa tướng muốn nghị luận việc gì trước ?

Tiêu Hà nói:

- Xin hiền sĩ cho biết việc trị loạn trong thiên hạ, và cái thế nguy, an của quốc gia:

Hàn Tín trầm tĩnh đáp:

- Bẩm Thừa Tướng, cái thế tranh thiên hạ cốt ở ba điều: "Thiên thời, địa lợi, nhân hòa ". Quan Trung là nơi Thiên phủ, núi non hùng vĩ, đồng ruộng phì nhiêu, dân cư đông đúc, từ xưa, các bậc đế vương lấy đó làm nơi kiến đô, lập ấp nay Hạng vương không ở, thiên đô về Bành thành, thực không biết gì về địa lợi. Hạng vương đến đâu, thiên hạ cho là vô địch, nhưng chẳng qua kính trọng bề ngoài, còn bên trong đã nhuốm mầm phản loạn, dân chúng lại không phục, thế là mất hẳn điểm nhân hòa. Hạng vương giết vua Nghĩa Ðế giữa dòng Ðại giang thật vô đạo, lòng trời không dung được hành động dã man như vậy. Thế thì Hạng vương đâu phải là người đáng sợ như thiên hạ lầm.

Tiêu Hà hỏi:

- Còn Hán vương thì thào ?

Hàn Tín nói:

- Hán trước vào Hàm Dương lấy ba điều ước pháp ban bố cho dân, khiến dân mến đức, tiếng tốt đồn khắp xa gần. Nay tuy bị dồn vào Hán Trung, nhưng Hán Trung là nơi thuận tiện có thể dưỡng uy sức nhuệ, củng cố thực lực mình được. Bọn Chương Hàm trấn ở Tam Tần, dân chúng oán vọng, mong Hán vương trở lại làm vua Quan Trung, nếu ta đem quân ra phương Ðông, chắc trăm họ vì ta mà trợ chiến, chỉ một tiếng trống cũng đủ hạ Tam Tần, lấy Hàm Dương rồi. Nếu đã lấy được Hàm Dương thì cái thế thiên hạ sẽ về ta vậy.

Tiêu Hà hỏi:

- Theo ý hiền sĩ, lúc nào mới là dịp ra quân ?

Hàn Tín nói:

- Hạng vương thiên đô, chư hầu ly loạn, trăm họ đang nhao nhao chờ một minh quân làm chủ Tam Tần .

Nếu trễ nải, trong bốn nước chư hầu Tề, Ngụy, Triệu, Yên, có nước nào thu dụng được kẻ trí đem quân vào hướng Tây, trước lấy Hàm Dương sau lấy Tam Tần chẹn nơi hiểm yếu, thì quân Hán phải chết già trong đất Bao Trung này, khi nào ra khỏi được.

Tiêu Hà nghe đến câu ấy, ghé vào tai Hàn Tín nói nhỏ:

- Sạn đạo đã đốt rồi, làm thế nào mà xuất quân gấp được ?

Hàn Tín mỉm cười đáp:

- Ðốt Sạn đạo, Tử Phòng cốt làm mưu cho quân Sở không để ý đến Bao Trung mà thôi, hẳn Tử Phòng đã tìm được con đường khác thay cho Sạn đạo rồi ! Việc ấy làm sao bịt mắt được kẻ thức giả ?

Tiêu Hà nghe Hàn Tín nói thất kinh, chắp tay nói:

- Từ khi tôi đến Bao Tnmg chưa được nghe ai bày tỏ kiến thức sâu rộng như thế, hiền sĩ thực là kẻ anh tài.

Nói xong, gọi quân thắng ngựa, đưa Hàn Tín về tư dinh đàm đạo. Hai ngựa song kề, tâm hồn hoan hỉ.

Ðến nơi, yến tiệc đã bày sẵn chủ khách nâng ly, và khởi đầu câu chuyện hàn huyên.

Tiêu Hà hỏi:

- Nước nhà an nguy, quân cơ lợi hại đều do người làm tướng cả, vậy hiền sĩ cho biết đạo làm tướng phải thế nào.

- Bẩm Thừa Tướng, đạo làm tướng trước nhất phải có,"năm tài" và tránh "mười lỗi". Năm tài là: Trí, nhân, tín dũng, trung. Trí thì biết cẩn thận, nhân thì biết thương người, tín thì không sai hẹn, dũng thì không ai dám phạm, trung thì không ở hai lòng. Còn mười điều lỗi: một là cậy vào cái dũng khinh thân mình, hai là gặp việc gấp thì nóng nảy, thiếu cẩn thận, ba là gặp lợi thì ham, bốn là vì lòng nhân không dám giết người, năm là ỷ lại vào sức mình không biết lo xa, sáu là tin mà không phòng, bảy là không chịu thu thập ý kiến mọi người, tám là việc đáng làm gấp mà do dự, chín là thiên vị, thiếu công bằng, mười là lười biếng, chỉ muốn sai người. Nếu có đủ "năm tài" và tránh được "mười lỗi" ấy, tất là tướng giỏi.

Tiêu Hà hỏi:

- Hiền sĩ xem các tướng bây giờ thế nào ?

Hàn Tín đáp:

- Trong thiên hạ kẻ có dũng lại vô mưu, kẻ có mưu lại thiếu dũng, đó là chưa nói đến những cá tánh bất lợi như: tự đắc, tự mãn, khoe khoang, kiêu ngạo. Có những cá tánh ấy không thành lương tướng được.

Tiêu Hà hỏi:

- Nếu hiền sĩ làm tướng thì thế nào ?

Hàn Tín đáp:

- Nếu Tín tôi làm tướng thì khác hẳn với tướng thời bây giờ. Tất cả đều theo như binh pháp, lấy văn mà dùng, lấy vũ mà định, động thì phát, tĩnh thì giữ. Lúc binh chưa ra thì tĩnh trông như núi Thái Sơn, lúc binh đã ra thì cuồn cuộn như nước sông Hoàng Hà, biến hóa như trời đất, hiệu lệnh như lôi đình. Mất có thể làm còn, yếu có thể làm mạnh; nguy có thể làm an được, cơ biến không biết đâu mà lường, quyết thắng từ ngoài nghìn dặm, binh uy không để một kẻ nào dòm ngó nổi, muôn vạn quân, trăm nghìn tướng không chỗ nào sai lầm. Lấy nhân mà dùng, lấy lễ mà dạy, lấy dũng mà khiến, lấy tín mà thờ. Cái lối làm tướng như thế, Thừa Tướng bằng lòng chăng ?

Tiêu Hà thấy Hàn Tín ứng đối như nước chảy, trí tuệ thông suốt, tấm tắc khen thầm, và tự nghĩ:

- Hán vương được người này thật là phúc lớn. Cái chức Phá Sở Ðại Nguyên soái trừ Tín ra không còn ai hơn nữa ?

Từ đây, Tiêu Hà giữ Hàn Tín nơi tư dinh, khiến quân hầu hạ, tiếp đãi như các bậc thượng khách.

Mặc dầu vậy, Hàn Tín vẫn giấu kỹ cái giốc thư của Trương Lương, không chịu đưa ra, chỉ dùng tài của mình để tiến thân mà thôi.

Còn Tiêu Hà từ khi gặp được Hàn Tín, lòng rất hoan hỉ, ngày đêm chuyện vãn, quên ngủ quên ăn.

Thật là:

Anh hùng rõ mặt anh hùng

Biết người giữa chốn bụi hồng mới cao
Về Đầu Trang Go down
  • Trả lời chủ đề này

Bài gửi by Admin Wed Apr 22, 2015 6:20 am

Hán Sở tranh hùng Empty Re: Hán Sở tranh hùng

Admin
Admin
Administrator
Administrator

Tổng số bài gửi : 5122
Points : 8388
Reputation : 1360
Join date : 21/11/2014
Đến từ : Tp.HCM

https://ccxiqi.forumvi.com
Hồi 17

Hàn Tướng quân khuất thân làm Ðô Uý

Tiêu Thừa tướng sốt ruột theo anh hùng

Một hôm, Tiêu Hà và Ðằng công vào triều, tâu với Hán vương:

- Chúng tôi vừa chọn được một hiền sĩ, tài kiêm văn học suốt cổ kim, đáng làm Phá Sở Nguyên Nhung, xin Hán vương trọng dụng.

Hán vương hỏi:

- Hiền sĩ tên gì, quê quán ở đâu, tài năng ra thế nào ?

Tiêu Hà tâu:

- Người ấy ở Hoài Âm, họ Hàn tên Tín, trước làm quan Chấp Kích Lang nước Sở, thường dâng biểu, nhưng Hạng vương không dùng nên bỏ Sở về đây..Vừa rồi, chúng tôi cùng nói chuyện, biết là bậc đại tài, dẫu Y Doãn, Tử Nha, Tôn Vũ cũng khó sánh kịp.

Hán vương cười rằng:

- Người này khi còn ở Huyện Bái ta đã nghe tiếng luồn khố Ðỗ Trung, xin cơm Phiếu mẫu, làng nước ai cũng khinh bỉ. Nay Thừa Tướng cử người này làm Ðại tướng sợ ba quân không phục, các nước chê cười, Hạng vương cho ta là người không có mắt.

Tiêu Hà nói:

- Tâu Ðại vương, xưa nhiều ng­ời xuất thân bần tiện, mà vẫn dựng nên nghiệp cả, như Y Doãn xuất thân là kẻ thất phu ở Sàn Giã, Thái Công là kẻ đi câu sông Vị, Ninh Thích là người buôn xe, Quản Trọng là kẻ tù đồ, đến lúc gặp được thời, đều tạo nên đại sự cả. Hàn Tín tuy xuất thân bần tiện song.tài học tuyệt vời, nếu không dùng, tất hắn sang nước khác, xin Ðại vương xét lại.

Hán vương nói:

- Các khanh đã bảo tấu, không lẽ ta chẳng vị tình.

Thế thì cho đòi hắn vào xem.

Tiêu Hà liền sai người đến mời Hàn Tín vào bệ kiến.

Hàn Tín nghĩ thầm:

- Hán vng khinh bỉ ta thế này tất không dùng ta nổi. Tuy nhiên, ta cứ vào bệ kiến xem sao !

Liền theo gót sứ giả. Vừa vào đến nơi, Hán vương hỏi:

- Nhà ngươi từ nghìn dặm đến đây, chưa thấy rõ tài năng làm sao đại dụng được. Nay trong kho thiếu chức Chưởng lý, ta cho ngươi làm chức Liên Ngao, xem tài năng thế nào đã.

Hàn Tín tạ ơi lui ra, sắc mặt vẫn tự nhiên không hề tỏ bất mãn.

Ðằng công và Tiêu Hà thấy vậy lòng lo lắng không an.

Hôm sau, Hàn Tín đến kho, kiểm điểm thóc lúa, tính toán sổ sách, mau lẹ phi thường, không sai một mảy.

Những người coi kho thấy Hàn Tín tính toán minh bạch đều sụp lạy thưa:

- Từ khi có kho đến nay chúng tôi chưa thấy ai thần toán như ngài.

Hàn Tín vừa cười vừa nói:

- Ðó chẳng qua cái trò nô lệ thôi, có gì là thần thánh !

Tiêu Hà sai ng­ời đến thám thính, thấy Hàn Tín tài giỏi như vậy, liền mời về dinh, nói:

- Ngài học ở đâu ra phép tính toán thần diệu như vậy ?

Hàn Tín đáp:

- Phép toán có nhiều lối, có số "tiểu cửu" có số "đại cửu" Nếu tinh tường các phép ấy thì dẫu bốn bể, năm châu cũng chỉ ở trong bàn ­nh' đó'.1.. Trước kia vua Phục Hy chỉ có 61 quẻ, mà thiên biến vạn hóa, việc vũ trụ không thoát ngoài các quê ấy được .

Tiêu Hà nói:

- Học vấn của ngài chắc là. tất chung vậy.

Hàn Tín nói:

- Thóc gạo trong "kho để lâu nay đã mục nát, xin đem ra bán cho dân, thay hạt củ lấy hạt mới, vừa lợi cho dân, vừa ích cho nước đó là việc của Thừa Tướng !

Ngài đề nghị rất phải.. Ngày mai tôi sẽ tâu với Hán vương thi hành ngay việc ấy.

Ba hôm sau, Hán vương không ngự triều. Tiêu Hà viết sớ sai nội thị vào tâu. Hán vương phán:

- Mấy hôm nay ta bực tức, chỉ mong thoát ra khỏi Bao Trung, nhưng chưa có kế gì hay. Vì vậy không lâm triều. Ngày mai xin mời Thừa Tướng đến thương nghị.

Hôm sâu, Tiêu Hà cùng bá quan vào chầu, Hán vương kiểm điểm công việc xong, vào tiền điện cùng với Tiêu Hà nghị sự.

Hán vương nói:

- Ta ở đây đã tâu, nóng lòng muốn xuất quân, chẳng hay Thừa Tướng có kế gì chăng.

Tiêu Hà nói:

- Tâu Ðại vương, muốn xuất quân tất phải dùng một vị Phá Sở Ðại Nguyên Soái mới được.

Hán vương thở dài nói:

- Chính ta cũng đang lo về việc đó.

Tiêu Hà nói:

- Ðại vương bất tất phải lo, chỉ cần phong ngay Hàn Tín làm tứớng là xong việc.

Hán vương cười nói:

- Làm gì cái tài nhỏ nhen ấy !

Tiêu Hà tâu:

- Cứ xem tài này tất hiểu tài khác. Hàn Tín quả thực đáng làm Nguyên Nhung, không nén cố chấp .

Hán vương suy nghĩ rồi phán:

- Ừ ! Nếu vậy cứ thăng cho Hàn Tín chức Tri túc Ðô Uý xem sao đã.

Cận thần ban lệnh, Hàn Tín vẫn nghiễm nhiên nhận lãnh.

Hôm sau, Hàn Tín đến dinh Ðô Uý, đem cả sổ sách ra tra xét, lương tiền, thu nộp, chi phí đâu đó rành mạch.

Khi trước, những quan Ðô Uý đến nhận chức, hay ăn lễ các người nhà kho, nên chúng bảo thế nào nghe thế ấy, dân tình thán oán, mất lẽ công bằng. Nay Hàn Tín đến, trước hết ra giấy yết thị, tra xét những kẻ nhũng lạm trước kia, cách chức tất cả, rồi đưa vào những người đứng đắn, vì vậy trăm họ hoan hỉ, tranh nhau nộp thuế. Chỉ trong nửa tháng mà thuế khóa nộp hết không thiếu một đồng tiền nào. Dân chúng mến phục, tìm đến nói:

- Từ ngài đến coi kho, dân chúng tôi chẳng ai mất một thúng thóc một đồng tiền nào. Mới mấy hôm mà lương tiền dồi dào, so với khi trước cách xa lắm.

Lại rủ nhau đến phủ Thừa Tướng, nói:

- Hàn đại nhân đến đây thực là phúc đức cho dân chúng tôi lắm. Trước kia quan coi kho tham lam, áp bức dân chúng, phù thâu tiền lúa, nay chúng tôi không còn bị nạn ấy lấy làm hoan hỉ.

Tiêu Hà an ủi:

- Hàn đại nhân là kẻ hiền tài, đâu phải coi kho mãi mãi. Chẳng qua Chúa thượng muốn thử tài người vài hôm đó thôi. Người ấy phải là Nguyên Nhung, đánh Ðông dẹp Bắc, giúp vua thâu thiên hạ, dựng cơ đồ mới xứng mặt.

Dân chúng bái lạy lui ra, Tiêu Hà nằm vắt tay lên trán nghĩ thầm:

- Hàn Tín là kẻ quốc sĩ, việc lớn việc nhỏ đều tinh tường cả... Ta phải hết lòng tiến cử, nếu không hoài mất một vị Phá Sở Nguyên Nhung.

Hôm sau, Tiêu Hà vào triều Hán vương mặt buồn bã, đòi Tiêu Hà lên điện, nói:

- Ðêm qua ta nằm mơ thấy mộng không lành, lại thêm lòng nhớ cha mẹ, vợ con nơi Bành Thành, không biết ngày nào trông thấy mặt. Nếu cứ uất ức ở đây mãi ta không thể nào vui được, Thừa Tướng có nghĩ đến việc đó chăng ?

Tiêu Hà nói:

- Tâu Ðại vương, trước kia vua Cảnh Công nước Tề đi săn về nói chuyện với Án Tử: "Quả nhân mỗi khi mơ thấy triệu bất tường, thì lòng lại không vui". Án Tử thưa: "Triệu bất tường thế nào, xin Chúa công cho biết". Cảnh Công nói: "Ta trông lên núi thấy hùm, nhìn xuống hầm thấy rắn...". Án Tử nói: "Núi là chỗ hùm ở, hầm là nơi rắn ở, đó là thuận cảnh sao gọi là bất tường được. Hiện nay trong nước có ba điều bất tường mà Chúa công không biết" Cảnh Công hỏi: "Ba điều bất tường ấy là gì ?". Án Tử nói: "Nước có người tài mà không biết là một điều bất tường; biết mà không dùng là hai điều bất tường, dùng mà không xứng với tài năng là ba điều bất tường". Bây giờ Ðại vương mộng thấy điềm chẳng lành, chính là cái triệu có hiền sĩ mà không biết dùng đó.

Hán vương ngơ ngác hỏi:

- Nếu trong nước có người tài lẽ nào ta lại không dùng ? Từ ngày ta vào Bao Trung đến nay nào có thấy ai là anh tài đâu ?

Tiêu Hà nói:

- Người tài trước mặt Ðại vương không dùng, lại mong người đâu đâu thực là lạ lắm !

Hán vương bực dọc hỏi:

- Người hiền sĩ là ai ? Thừa Tướng cứ nói, ta sẽ trọng dụng ngay.

Tiêu Hà nói:

- Tôi muốn tiến cử e Ðại vương khinh kẻ bần tiện, không chịu dùng, làm mất lòng người ấy, và khiến cho kẻ hào kiệt bốn phương sanh lòng chán ngán, không muốn đến làm tôi Hán vương nữa.

Hán vương nói:

- Thừa Tướng bất tất phải nói lắm. Cứ nói tên hiền sĩ ấy cho ta biết.

Tiêu Hà khấu đầu nói:

- Hiện nay bậc hiền sĩ trong thiên hạ không ai hơn Hàn Tín. Nếu Ðại vương không dùng, chắc y không chịu ở đây nữa.

Hán vương nói:

- Tước lộc đâu phải là món đồ chơi, muốn cho ai cũng được. Hàn Tín mới đến đây một tháng mà phong thưởng hai lần Nếu còn phong thưởng nữa e những tướng sĩ theo ta từ Phong Bái đến đây, cho ta là thất đáng chăng ?

Tiêu Hà tâu:

- Các bậc Ðương thời xưa dùng người cốt tùy tài mà trao chức. Hàn Tín là bậc trí dũng, Ðại vương đem dùng vào việc nhỏ, không xứng đáng tài năng, vì vậy hạ thần mới phải mấy phen tiến cử. Còn như các tướng ở Phong Bái, đều kém xa Hàn Tín, Ðại vương bì sao được ?

Hán vương nói:

- Thôi ! Ta cũng nghe lời Thừa Tướng, nhưng phải chờ đợi hai tháng nữa, nếu Trương Lương không tiến cử ai đến đây, chừng ấy ta sẽ trọng dụng Hàn Tín cũng chẳng muộn.

Tiêu Hà bất đắc dĩ phải trở về dinh chờ lệnh.

Hôm sau, Tiêu Hà lại mời Hàn Tín đến tư dinh hỏi chuyện làm thế nào hạ được Tam Tần ?

Hàn Tín cười nhạt nói:

- Tôi vẫn tưởng Thừa Tướng thông hiểu binh pháp, ngờ đâu lại chẳng biết gì cả. Phàm việc quân tùy cơ mà động, tùy thời mà biến, không thể tiên liệu hoặc dự mưu được Mà dẫu có dự mưu thì cha con cũng không nên cho biết... Vậy mà Thừa Tướng lại hỏi chuyện đó chớ.

Tiêu Hà rất khâm phục. Từ đó lại càng kính trọng hơn.

Hàn Tín trở về Công quán, cách hai tháng sau vẫn không thấy tin tức gì, nghĩ thầm:

- Nếu không khích Tiêu Hà, e Hán vương bỏ lơ, mà dẫu mình có đưa giốc thư của Trương Lương ra, tứớng sĩ cũng không phục. Chi bằng lập kế làm cho Tiêu Hà sốt ruột mới xong.

Nghĩ rồi, truyền bọn môn hạ sắm sẵn một con ngựa tốt để sáng hôm sau đi sớm có việc.

Trời vừa tang tảng sáng, Hàn Tín gói ghém hành lý đề một bài thơ lên vách, rồi giục ngựa ra cửa Ðông đi thẳng.

Bọn gia nhân thấy Hàn Tín đi một cách vội vàng, đem lòng nghi ngờ, bàn với nhau:

- Thừa Tướng sai chúng ta đến đây phục dịch Hàn đại nhân, và dặn hễ Hàn đại nhân đi đâu phải cấp báo. Nay Hàn đại nhân bỗng dưng đi sớm thế này, chúng ta phải cấp báo mới được.

Chúng liền vào trình với Tiêu Hà.

Tiêu Hà hay tin tay chân bủn rủn, vội vàng đến nhà Công quán, thấy trên vách có bài thơ như vầy:

Anh hùng lỡ vận bước long đong

Thà chịu an thân khỏi thẹn lòng

Vó ngựa xa vời trông cố quận

Công danh chán ngắt mộng anh hùng.

Tiêu Hà dậm chân xuống đất thở dài nói:

- Ðã mấy lần ta tiến cử lên Chúa thượng, nhưng Chúa thượng không dùng, để hắn bỏ đi. Nếu không gọi hắn về thì sau này ăn ngủ sao yên !

Liền gọi mấy tên đầy tớ, mỗi người sắp một con ngựa, rồi thầy trò cùng đuổi theo.

Ra đến cửa Ðông, Tiêu Hà hỏi viên quan giữ cửa:

- Nhà ngươi có thấy Hàn Tín ra đây chăng ?

Viên quan giữ cửa đáp:

- Lúc mở cửa, tôi thấy người ấy đi qua đây, giờ đã đi xa rồi.

Tiêu Hà vội thúc ngựa đuổi theo. Ðến thôn kia, hỏi thăm dân chúng.

Dân chúng đáp:

- Sáng sớm có một ng­ời cởi ngựa trắng, lưng đeo kiếm đi qua đây, nhưng bây giừ thì cách xa lắm rồi.

Tiêu Hà từ sáng sớm chưa ăn uống bởi mải theo dõi Hàn Tín cho đến chiều mới vào quán ăn qua loa vài miếng, rồi lại lên ngựa đi nữa.

Trời sẩm tối, bóng trăng non lả lướt gieo ánh vàng trên đỉnh non cao, bấy giờ Hàn Tín theo bóng trăng đi đến bến Hàn Khê. Ðêm thanh sông lạnh, núi thẳm rừng khuya, nước thu đầy dấy, Hàn Tín không làm sao lội sang được nên gò ngựa đứng xem trăng.

Tiêu Hà theo đến, nơi xa trông thấy bóng một người cởi ngựa đang tìm chỗ sang sông, lòng mừng rỡ, gọi lớn:

- Hàn Tướng quân, sao lại bạc tình đến thế ?

Hàn Tín mừng không đáp. Tiêu Hà giục ngựa đến, nắm lấy cương ngụa Hàn Tín, nói:

- Ở với nhau bấy lâu, dầu sao cũng nuôi một ít tình nghĩa, nỡ nào ra đi không một lời từ giã ?

Tiêu Hà vừa dứt lời thì có một bóng ngựa phi tới Tiêu Hà ngạc nhiên, thấy đó là Ðằng công Hạ Hầu Anh, mừng rỡ reo lên:

- Ngài có việc chi mà cũng đến đây.

Ðằng công đáp:

- Vừa tan buổi chầu, tôi trở về nhà nghe nói Hàn Tướng quân bỏ đi rồi, tôi vội đuổi theo để mời trở lại. Ngờ đâu Thừa Tướng lại đến trước tôi. Thế mới rõ Thừa Tướng còn giỏi hơn tôi gấp mấy.

Hàn Tín thấy Tiêu Hà và Ðằng công ân cần khẩn thiết, một lòng trung nghĩa, bất giác thở dài, nói:

- Hai ông thật là bậc trung thần hiếm có. Căn cứ vào đấy có thể nói là nghiệp nhà Hán đang hưng vượng.

Tín tôi nguyện làm kẻ môn hạ của hai ngài.

Dưới bóng trăng soi, Tiêu Hà và Ðằng công cầm chặt tay Hàn Tín nói:

- Cổ nhân đã có câu: "Sĩ vị tri kỷ giả tử" Chúng tôi biết tài Tướng quân có thể sánh với Y, Lã, Quản, Nhạc đời xưa, hết lòng tiến cử, chỉ hiềm Chúa thượng tôi chưa biết tài Tướng quân. Vạy hai tôi xin hứa với Tướng quân, nếu không tiến cử được, hai tôi cũng bỏ quan về làng, chẳng ở đất Bao Trung này nữa.

Hàn Tín bùi nhìn cảm tạ, cùng nhau so cương trở bước, về tạm trú nơi dinh Tiêu Hà.

Trong lúc Tiêu Hà và Ðằng công đuổi theo Hàn Tín thì quan hầu cận Chu Bột hay được tin, vào tâu với Hán vương:

- Các tướng ở Quan Ðông trốn đi hơn hai mươi người, trong đó có Tiêu Hà, đã hai hôm nay chưa thấy về.

Hán vương vừa giận vừa lo nói:

- Lạ thật ? Các tướng khác theo ta dọc đường đến đây chẳng nói làm chi, còn Tiêu Hà giúp ta khởi nghĩa từ Phong Bái, đồng cộng khổ, nỡ nào lại bỏ ta ?

Hán vương đứng ngồi không yên, bỏ ăn bỏ uống, lúc vào hậu cung, khi ra tiền điện, lòng nóng như đốt !

Ðang cơn phiền não, bỗng có quân vào báo:

- Tiêu Thừa Tướng và Ðằng công đã về.

Hán vương thở phào ra một hơi, luống cuống, vừa mừng vừa giận, mặt mày xám ngắt.

Thấy Tiêu Hà và Ðằng Công bước vào bệ kiến, Hán vương hét lớn:

- Các ngươi theo ta mấy năm nay chưa hề cách nhau, nay thấy các tướng trốn đi, các ngươi cũng trốn theo ?

Tiêu Hà bình tĩnh tâu:

- Muôn tâu Ðại vương, chúng tôi phò Ðại vương, được làm đến chức Thừa Tướng, Ðại vương có phụ gì tôi, mà tôi dám bỏ đi ? Sở dĩ tôi đi mấy ngày nay là để tìm một người bỏ trốn, muốn vì Ðại vương bày kế chinh Ðông khôi phục lại Quan Trung ấy thôi.

Hán vương hỏi:

- Theo tìm người trốn là ai ?

Tiêu Hà tâu:

- Người trốn ấy chính là Hàn Tín.

Hán vương cười nhạt, nói:

- Các tướng bỏ trốn vô số, không theo tàn ai, lại tìm Hàn Tín !

Tiêu Hà nói:

- Tâu Ðại vương, các tướng dễ tìm, duy có Hàn Tín là kẻ anh hùng bậc nhất trong thiên hạ, mất đi là mất cả giang sơn. Nếu Ðại vương chỉ muốn làm vua ở Hán Trung này, không cần về bên Ðông, thì mới không cần Hàn Tín.

Và Ðại vương không có chí lớn thì Hà tôi xin cởi áo từ quan, về sống nơi điền dã cho khỏi hổ phận tu mi.

Tiêu Hà vừa dứt lời, Ðằng công tâu tiếp:

- Tâu Ðại vương, lời. Thừa Tướng chứa đầy lòng yêu nước. Vì Ðại vương, vì thiên hạ mà nuôi chí lớn, xin Ðại vương rộng xét.

Hán vương nói:

- Các ngươi chỉ nghe hắn nói, chưa thấy được tài năng thì làm sao bảo đảm trọng trách đó. Nước nhà yên nguy, ba quân còn mất đều ở cả trong tay người tướng. Cầm ba trăm ngàn quân mã trong tay, điều khiển hơn bảy mươi viên dõng tướng, ví bằng hạ được Tam Tần, phá được nước Sở như lời các người dự đoán thì chẳng nói làm chi còn như nói mà không làm được, chẳng những đem sinh mạng ba quân chôn vùi trong lửa đỏ, mà còn gây cảnh điêu linh cho thiên hạ, gây tang tóc muôn dân, chừng ấy hối sao kịp ? ? Ấy vậy ta dè dặt việc dùng người.

Vả chăng. Hàn Tín lúc cha chết không làm nổi ma chay, là kẻ bất trí, đem tấm thân luồn trôn gã bán thịt, không biết nhục, là kẻ hèn hạ, làm tôi nước Sở ba năm mà chỉ làm đến chức Chấp kích bang, đó là kẻ bất tài. Lấy dĩ vãng đoán tương lai, ta cho Hàn Tín là vô dụng, nếu bậc anh tài bao giờ như thế. Các người nghĩ kỹ xem.

Tiêu Hà tâu:

- Lời nói của Ðại vương theo thông thường thì cho là chí lý. Song đây là kẻ phi thường. Kẻ phi thường có thể có những hoàn cảnh phi thường. Nếu không vậy, Hàn Tín đã đắc dụng ở nước Sở, đã làm quan lớn ở Sở, đã đem quân diệt nước Hán ta, có đâu lại tìm đến phò Hán, để ngày nay Ðại vương cùng tôi thần bàn luận. Xưa Ðức Khổng Tử bị khốn ở Trần, Sái, có phải là ngài vô năng đâu ? Bị người nước Khuông vây mà chịu khoanh tay, há phải là ngài vô dũng đâu ? Rồi đến suốt đời, chịu chết già, không làm nên trò gì có phải là người vô dụng đâu ? Như vậy Hàn Tín chịu ăn xin, chịu luồn trôn, chỉ là hoàn cảnh đặc biệt, làm quan chỉ đến chức Chấp kích lang cũng chỉ là chưa gặp được chân Chúa. Nay hạ thần đã thông cảm con người Hàn Tín, đã hiểu thấu tài năng của Hàn Tín, đáng là bậc lương đống, đủ sức đảm đương trọng trách hạ thần đã tiến cừ. Nếu Ðại vương không dùng, hạ thần xin liều chết van xin cho được mới nghe.

Hán vương thấy Tiêu Hà hết lòng khổ gián, đem những lời thiết thạch tâu bày, lòng còn do dự, thì trời đã sẩm tối, liền phán:

- Thôi, hai khanh về nghỉ, đến mai ta sẽ thương nghị.

Tiêu Hà, Ðằng công lui về nhà, nói với Hàn Tín:

- Sáng mại vào chầu, Chúa thượng sẽ phong ngài làm tướng.

Hàn Tín nói:

- Chúa thượng chưa tin tôi, tôi e chỉ làm bận lòng hai ngài mà thôi.

Tiêu Hà nói:

- Nếu Chúa thượng không dùng Ngài, chúng tôi cũng xin vì ngài bỏ chức, không ở đây làm gì.

Ðằng Công buồn bã cáo từ trở về dinh. Tiêu Hà cũng lui gót.

Hàn Tín ngồi một mình lòng lâng lâng hoài cảm, nghĩ thầm:

- Tiêu Hà hết lòng vì nước cầu hiền, rõ là kẻ trung liệt. Hán vương sở dĩ không muốn dùng ta chẳng qua chỉ vì ta xuất thân bần tiện.

Bất giác, Hàn Tín rơi lệ, tủi hổ thân mình, ngâm thành mấy câu thơ:

Mây gió phôi pha bóng nguyệt tà

Vận thời chưa gặp khó bôn ba

Nghèo hèn phản bạc, đời dang dở

Con tạo trêu người mãi thừa !

Hàn Tín chép xong bài thơ, toan đi nghỉ, bỗng có quân hầu vào báo:

- Có quan Thừa Tướng đến chơi.

Hàn Tín vội vã đội khăn, mặc áo ra đón chào vào.

Ðêm khuya Thừa Tướng vẫn chưa an nghỉ sao ?

Tiêu Hà đáp:

- Bận lòng vì nước, không thể nằm yên được. Có một điều muốn hỏi hiền sĩ.

Hàn Tín mời vào trong, hỏi Tiêu Hà:

- Xin Thừa Tướng cho biết ý.

Tiêu Hà nói:

- Bên Sở có Phạm Tăng vốn là người tinh tường, đã nhiều lần tiến cử hiền sĩ, chắc hiền sĩ đối với Phạm Tăng cũng có thâm tình và đã bày nhiều diệu kế ?

Hàn Tín đáp:

- Phạm Tăng quả là người kiến thức, đã nhiều lần vì tôi tiến cử, nhưng Bá vương không biết nghe lời... Sau đó, Sạn đạo bị đốt, tôi có làm sớ dâng lên nói rõ việc lợi hại, nh­ng Bá vương vẫn cho lời tôi là hư ngôn. Dẫu có vì vua bày kế, mà vua không nghe thì cũng chẳng ích gì.

Hàn Tín móc túi lấy ra tờ sớ lúc trước, đưa cho Tiêu Hà xem:

Tiêu Hà giật mình nói:

- Nếu Hạng vương biết nghe lời ngài thì chúng tôi suốt đời chôn thây nơi đất Bao Trung này rồi.

Hàn Tín nói:

- Bá vương không nghe lời tôi,. tôi cũng chưa có ý bội Sở. Sau khi Phạm Tăng bị Trần Bình lầm kế phản gián, phải đi sang Bành Thành, lúc ra đi ông ta có dặn Bá vương ba việc: Một là không nên để Hán vương vào Hán Trung, hai là đừng bỏ Hàm Dương về Bành Thành, ba là nên trọng dụng tôi... bằng không phải giết bỏ ngay. Tôi biết Bá vương thế nào cũng không theo lời dặn ấy, và như vậy Phạm Tăng sẽ bày kế khác để hại tôi, nên tôi mới bỏ Sở về Hán.

Tiêu Hà ngồi trâm ngâm ra dáng suy-nghĩ.

Hàn Tín hiểu ý nói:

- Ðêm khuya, Thừa Tướng đến đây ý chừng ngài cho tôi là tâm phúc với Phạm Tăng chăng ? Vả lại, hôm trước ngài thấy tôi trốn đi có lẽ ngài nghĩ rằng tôi đem tin tức Bao Trung về báo với Phạm Tăng nên hỏi như thế.

Tiêu Hà vẫn trầm ngâm.không đáp. Hàn Tín nói tiếp:

- Vâng ? Ngài vì nước nghĩ như thế cũng phải. Song thiết tửởng bấy lâu nay tôi cũng đã thố lộ hết tâm can với ngài rồi, vậy mà ngài còn nghi ngại ? Nếu vậy, tôi đưa vật này cho ngài xem, chắc ngài không còn nghi ngờ nữa.

Dứt lời, Hàn Tín móc túi lấy giốc thư của Trương Lương đưa cho Tiêu Hà xem.
Về Đầu Trang Go down
  • Trả lời chủ đề này

Bài gửi by Admin Wed Apr 22, 2015 6:20 am

Hán Sở tranh hùng Empty Re: Hán Sở tranh hùng

Admin
Admin
Administrator
Administrator

Tổng số bài gửi : 5122
Points : 8388
Reputation : 1360
Join date : 21/11/2014
Đến từ : Tp.HCM

https://ccxiqi.forumvi.com
Hồi 18

Cầu nguyên soái, Hán vương bái tướng

Cậy Công thần, Phàn Khoái bị giam

Hôm sau, Tiêu Hà đem giốc thư cho Ðằng công xem. Ðằng công vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ. Cả hai vội vào triều yết bái Hán vuơng.

Hán vương trông thấy thư, giật mình nói:

- Ôi chao ? Té ra người của Trương Tử Phòng tiến cử Hàn Tín đã có giốc thư sao lâu nay không xuất trình ?

Tiêu Hà kể lại tâm trạng của Hàn Tín, tại sao không trình giốc thư.

Hán vương mừng rỡ nói:

- Bấy lâu khanh tiến cừ mãi mà ta không tin, nay lại có giốc thư của Tử Phòng nữa, thế thì người này quả thật trang anh kiệt rồi. Xem đó đủ biết mắt ta không tinh đời làm mất đòng hiền sĩ. Bây giờ ta phong cho Hàn Tín làm tướng ngay, để bỏ có cất công tiến cử của khanh bấy lâu

Tiêu Hà nói:

- Nếu Ðại vương phong cho Hàn Tín làm tướng ngay, e Hàn Tín lại bỏ trốn nữa.

Hán vương ngơ ngẩn hỏi:

- Thế thì ta phong cho Hàn Tín làm Ðại tướng quân, Hàn Tín có bỏ trốn chăng ?

Tiêu Hà tâu:

- Phong làm Ðại tướng quân Hàn Tín lại càng bỏ trốn mau hơn nữa.

Hán vương cau mày hỏi:

- Tại sao vậy ? Còn có chức gì hơn chức Ðại nguyên soái ?

Tiêu Hà nói:

- Ðại vương phong tước bằng cách nào ?

Hán vương nói:

- Vời Hàn Tín đến trước mặt, và phong chức giữa triều

Tiêu Hà nói:

- Chức Ðại nguyên soái cầm sinh mệnh muôn quân, ngàn tướng, nếu Ðại vương xem thường như vậy dẫu có phong Hàn Tín cũng không nhận.

Hán Vương hỏi:

- Vậy phải phong bằng cách nào ?

Tiêu Hà nói:

- Ðại vương phải chọn ngày trai giới, lập đàn tế cáo thiên địa, như Vũ Vương phong cho Lã Vọng, mới đúng là lễ bái tướng.

Hán vương nhận lời, giao cho Tiêu Hà lập chương trình hành lễ.

Tiêu Hà mừng rỡ, về dinh thuật lại với Hàn Tín.

Hàn Tín cảm kích vô cùng.

Trong vòng mười ngày, Tiêu Hà họa một bản đồ gọi là bái tướng đàn, và thảo một chương trình hành lễ đem trình Hán vương xem.

Hán vương vui vẻ, truyện Quán Anh cứ theo chương trình ấy tiến hành việc đắp đàn, sửa lễ.

Việc Tiêu Hà tiến cử Hàn Tín trừ Ðằng công ra, không nói cho ai biết, nay thấy Hán vương sai Quán Anh đắp đàn để bái tướng, mọi người đều xôn xao bàn luận.

Phàn Khoái vỗ ngực nói với mọi người:

- Tôi cùng Hán vương khởi binh ở Phong Bái, chiếm Quan Trung lại cứu giá nơi Hồng Môn, theo vào Ba Thục, cùng chung cay đắng, chẳng chút chia phôi, kẻ khó nhọc chỉ có tôi là kẻ, phen này đắp đàn phong tướng chức ấy tất về tôi

Quàn sĩ đồng nói:

- Nếu lấy nhau kẻ công thần bấy lâu thì chức ấy không lọt khỏi Phàn Khoái, Ðằng công, Chu Bột..

Chẳng bao lâu, Quán Anh đắp đàn xong, Hán vương đôi Tiêu Hà đến bàn việc.

Tiêu Hà nói:

- Ngày tốt đã chọn rồi, xin Ðại vương trai giới ba ngày, truyền các quan hiểu dụ trăm họ, quét sạch đường sá nha môn hoãn việc dụng hình, không được sát sinh, không được uống rượu.

Hán vương nhận lời. Lệnh truyền ra, mọi người đều vui vẻ mong chờ vị Ðại nguyên soái.

Ðúng ngày, Hán vương xa giá ngự ra Tướng quốc phủ, mời Hàn Tín lên xe.

Hán vương lại đích thân đẩy bánh xe một vòng, rồi đi thẳng ra Tây môn. Suốt một dãy đường, bóng cờ phất phới, tiếng chiêng trống vang trời, văn thần áo dài mũ rộng, vũ tướng áo chiến gươm trường muôn họ vui vầy, chen nhau xem cảnh lạ.

Trước đây, khi thấy đắp đàn long trọng, ai nấy có quan niệm Hán vương sẽ chọn một kẻ phi thường, ngờ đâu lúc ấy đại thấy Hàn Tín ngồi trên xe cùng đi với Hán vương. Mọi người lấy làm lạ. Vũ vương hầu là Phàn Khoái đi sau xa giá, nói với Chu Bột:

- Chúng ta muôn cay nghìn đắng theo chúa đến nay đã ngót ba năm trời, lẽ nào bây giờ lại để cho thằng chết đói đó cai quản. Kẻ trượng phu thà chết chứ không chịu nhục.

Dứt lời, xăm xăm bước đến tr­ớc xa giá, nói lớn:

- Xin Ðại vương hãy tạm dừng xa giá lại, cho hạ thần tâu một lời. Thiết nghĩ: "Hàn Tín là kẻ chết đói ở Hoài Âm, xin cơm thừa của Phiếu mẫu, chịu luồn trôn gã hàng thịt. Lúc ở Sở chỉ làm đến chức Chấp kích lang, nay về Hán chỉ cậy ở lời nói lòe loẹt, chứ thực chưa làm được công lao gì. Vậy mà Ðại vương lại thân đẩy xe, phong làm Ðại tướng, nếu Hạng vương hay được chắc phải mĩm cười, và khắp thiên hạ sẽ bảo rằng đất Hán Trung không có người, đến nỗi phải dùng thằng chết đói. Ðại tướng là một thằng chết đói thì quân sĩ còn tranh chiến với ai. Xin Ðại vương xét lại.

Hán vương chưa biết trả lời ra sao, Tiêu Hà giục ngựa tới mắng ắt lên:

- Không thế được ? Nhà ngươi chỉ có thể vâng theo hiệu lệnh, cớ sao dám nói bậy ! Muốn làm loạn à. Ta làm chức Tướng quốc tiến cử Ðại tướng, công việc đã định rồi, nhà ngươi dám cậy chút công nhỏ hống hách khi quân pháp sao ?

Ðoạn quay lại tâu với Hán vương:

- Phàn Khoái cản xa giá, trái mệnh vua, xin Ðại Vương truyền bắt trói theo xe, sau sẽ phân xử.

Ðằng công cũng bước đến tâu:

- Ðại vương ban bố hiệu lệnh, không ai dám trái lời Phàn Khoái làm càn, giả sử các người khác cũng bắt chước như thế thì Ðại vương còn mong gì việc Ðông chinh. Xin đừng tiếc một Phàn Khoái để hỏng mất đại sự .

Hán vương tức giận, truyền bắt Phàn Khoái trói lại điệu theo sau xa giá, chờ bái tướng đăng đàn xong sẽ luận tội.

Xa giá đến trước tướng đài, một hồi chuông nổi lên, âm thanh rền rỉ. Trăm quan đều phủ phục tiếp đón. Trên đàn cờ xí phất phơ, khói trầm nghi ngút, tiếng nhạc nổi lên, viên quan hành lễ dắt Hàn Tín bước lên bậc thứ nhất.

Trên đó đã có Nhữ âm hầu là Hạ Hầu Anh đứng chờ. Hàn Tín theo nghi tiết, bứớc vào, đứng ngoảnh mặt về phía

Bắc, viên quan Thái sử đọc chúc:

Ðại Hán nguyên niên, tháng Trọng thân. ngày Bính tý, Bao Trung Hán vương khiến Nhữ âm hầu là Hạ Hầu Anh lảnh cáo thần Ngũ nhạc tứ độc Ðại xuyên rằng:

Trời sinh trăm họ, đặt kẻ trông coi, vua Tần bạo ngược, giết hại sinh linh, nay đến Hạng Vũ, cũng không kém phần tàn ác, chôn quân giết chúa bạo ngược trăm phần. Nay Bang tôi vì nghĩa cứu dân, phất cờ quyết tử, mong được nước trị dân an, lòng thành kính cáo, thần minh xét soi

Thượng hưởng.

Quan Thái sử đọc xong, Hạ Hầu Anh tay nâng cung tên trao cho Hàn Tín, và nói:

- Hán vương có mệnh ban cung tên này, tướng quân tung hoành bốn bể.

Hàn Tín quỳ xuống, đón lấy cung tên, rồi đưa cho tả hữu theo hầu cầm giữ.

Quan hành lễ lại đưa Hàn Tín lên bậc thứ hai , ở đó quan Tướng quốc Tiêu Hà đã chờ sẵn, đứng ngoảnh mặt về hướng Tây.

Hàn Tín quay mặt về hướng Bắc, quan Thái sử đọc chúc rằng:

"Ðại Hán nguyên niên, tháng Trọng lân, ngày Binh tý, Hán vương khiến Tướng quốc là Tiêu Hà lảnh cáo cùng nhật nguyệt linh thần, và Lịch đại Ðế vương rằng: Tôn thần là đấng công, hiểu rõ suy xét người thiện ác. Nhà Tần bạo ngược phải diệt vong, trăm họ lại lọt vào tay Hạng Vũ lắm điều thảm khốc. Tôi vì nhân dân cứu nạn, nên chọn nhân tài, dùng Hàn Tín cầm quân chinh phạt. Dăm mong thần soi xét phù hộ cho công việc chóng thành.

Thượng hương."

Thái sử đọc chúc xong, Tiêu Hà tay nâng phủ việt, đưa cho Hàn Tín và nói:

- Từ nay tướng quân giữ việc chinh phạt, vì dân cứu nạn, vì chúa lập công. Tướng quân nên cố gắng.

Hàn Tín quỳ xuống nhận lấy phủ việt, trao cho tả hữu cầm thay, rồi tỏ lời đáp từ.

Quan hành lễ lại dẫn Hàn Tín lên bậc thứ ba, ở đó Hán vương đã đứng sẵn, ngoảnh mặt về hướng Nam.

Giữa lúc đó, nhạc thiều trối khúc, hương khói ngạt ngào, bóng cờ tiếng trống uy nghi, rộn rã.

Quan Thái sừ bước tới, đọc chúc:

"Ðại Hán nguyên niên, tháng Trọng thân, ngày Bính tý, Hán Trung Vương Lưu Bang, kính cáo Hoàng thiên Hậu thổ.

Thiết nghĩ: Phàm người trị nước phải có điều nhân, nếu thiếu điều ấy muôn dân điêu đứng, ba hội lâm nàn. Kể từ nhà Tần gây việc biên loạn, nhân dân sầu thán, non nước đ­ợm sầu. Thần Bang thấy thế đau lòng, muốn đem lại thái bình thịnh trị. Ngờ đâu giữa đường gặp Hạng Vũ, dùng sức làm càn, cậy oai hống hách, chôn quân, giết chúa, bạo ngược lắm điều. Bang tôi sức hèn khó chống phải vào Hán Trung dưỡng uy sức nhuệ, quyết chí tranh hùng. Nay gặp Hàn Tín, trí dũng hơn người, đáng tài cầm quân giúp nước. Vậy trao Tiết việt giữ việc chinh phạt bốn phương. Chức làm Ðại tướng, thống nhất anh hùng, cầu mong chứng giám, giúp kẻ tôi hiền, đem lại thái bình thiên hạ.

Thượng hương."

Quan Thái sử đọc xong, Hán vương phong Hàn Tín làm Phá Sở Ðại tuớng quân, rồi lấy hổ phù, ngọc tiết, kiếm ấn, bảo kiếm trao cho Hàn Tín và nói:

- Từ nay trở đi, toàn thể tướng sĩ đều phải tuân theo hiệu lệnh của tướng quân. Tướng quân phải hết lòng vì nước, đem sức cứu dân, đạt một mục đích cao siêu, không vì lợi riêng nhỏ mọn. Giữa chiến trường, thắng bại là thường, đừng vì thua mà nản chí, đừng vì thắng mà tự kiêu, xem quân sĩ anh em, cùng chia bùi sẻ ngọt, đồng cam cộng khổ. Ðược vậy, việc cả mới mau thành, thiên hạ mới chóng yên, Tướng quân nên thận trọng...

Hàn Tín cúi đầu vâng mệnh, tâu:

- Tôi nghe trì nước phải được lòng dân, việc dùng quân phải giữ nghiêm lệnh. Dân chúng đã ngưỡng mộ, hiệu lệnh đã nghiêm minh thì dù trúc cũng phải chẻ, ngói cũng phải tan, đánh đâu chẳng thắng..

Nay hạ thần đã mãnh trọng trách, nguyện hết lòng đền ơn tri ngộ..

Hán vương nói:

- Bấy lâu, ta chỉ nghe Thừa Tướng nói, chưa rõ được tài tướng quân. Nay được tướng quân giải bày lòng ta rất hoan hỉ. Xin tướng quân vì ta lo việc quốc sự.

Hàn Tín tâu:

- Ðại vương muốn quay về phương Ðông tranh lấy thiên hạ, có phải dụng ý đối địch với Hạng vương chăng ?

Hán vương đáp:

- Chính thế !

Ðại vương liệu sức mình ngày nay có mạnh hơn Hạng vương chăng ?:

- Không mạnh hơn được.

Hàn Tín cung kính nói:

- Tâu Ðại vương, Hạng vương tuy mạnh thật, song tính tình nóng nảy, lấy uy áp chế, không biết dùng kẻ hiền, không biết trọng kẻ sĩ, thì cái mạnh ấy chẳng qua là cái dũng của kẻ vũ phu, không đáng sợ. Vừa rồi lại bỏ Quan Trung, thiên đô về Bành Thành, trên giết vua Nghĩa Ðế, dưới nộ chư hầu, tuy mang danh Bá chủ trong thiên hạ, song không một ai tùng phục. Thế thì cái mạnh ấy ai kể vào đâu. Bây giờ Ðại vương nhân lòng mong mỏi về Ðông của quân sĩ, phất cờ khởi chiến, chỉ một hồi trống là có thể phá vỡ Tam Tần ngay. Hạ thần dẫu bất tài cũng dám cam đoan lấy Quan Trung như trở bàn tay.

Hán vương mừng rỡ nói:

- Rất tiếc là đến bây giờ ta mới gặp được tướng quân !

Ðoạn cùng Hàn Tín xuống đàn, trở về triều. Bá quan theo sau hộ giá.

Tiêu Hà sai quân dẫn Phàn khoái đến để Hán vương vấn tội.

Hán vương nói:

- Phàn Khoái tuy là người chí thân của ta, nhưng cậy công phạm giá, là mất phong thể triều đình, cần phải trừng trị để làm gương ba quân.

Tiêu Hà ghé vào tai Hán vương tâu nhỏ:

- Phàn Khoái tuy phạm pháp, nhưng là kẻ có công lớn tình nên dung thứ. Vả lại, mới vừa phong Ðại tướng mà đã giết công thần e không lợi cho việc quân. Tuy nhiên, nếu tha ngay, sợ Phàn Khoái không bỏ tật cũ thì quân lệnh mất nghiêm, xin Ðại vương cứ hạ lệnh giao cho đình thần luận tội, hạ thần sẽ liệu bề châm chước, như thế thì phép nước mới nghiêm.

Hán vương khen phải, liền hạ chiếu rằng:

"Trẫm phong Hàn Tín làm Ðại tướng là vì đã ba lần Tiêu Thừa Tướng tiến cử, có tờ giốc thư của Tử Phòng giới thiệu và xét thấy tài năng của Hàn Tín đáng làm chức ấy. Thế mà Phàn Khoái dám cậy công cao, phạm giá khinh lờn phép nước. Nếu không trị tội còn gì thể diện triều đình. Vậy giáng chiếu giao Phàn Khoái cho triều thần, lấy phép công nghị xử. Giết một kẻ có tội mà trấn an được trăm họ là việc nên làm. Ðình thần chớ dung túng .

Nay chiếu."

Tiêu Hà và đình thần lãnh chiếu họp nhau bàn luận.

Giữa lúc đó, có người đến báo cho Phàn Khoái hay.

Phàn Khoái sợ hãi, nói với các cận tướng:

- Nguy thay ! nếu không có ai vì tôi cứu mạng e tôi chết mất.

Chu Bột cười lớn, nói:

- Việc gì mà t­ớng quân sợ đến thế ?

Phàn Khoái đôi mắt đỏ hoe, phàn nàn:

- Nào có việc gì đâu ! Chỉ vì tôi nóng nảy phạm giá.

Bây giờ Chúa thượng hạ chiếu xuống triều thần, khép tôi vào tội chết. Xin các ông làm ơn nói với Tiêu Thừa Tướng,

nghĩ lại cái công cứu giá của tôi ở Hồng Môn mà dung tha tội chết cho tôi nhờ.

Chu Bột gật đầu nói:

- Ðược ! Ðể tôi làm phước nói hộ cho. Tội tướng quân rất lớn, trong lúc Chúa thượng đăng đàn, bái tướng là việc trọng đại mà tướng quân dám làm càn như thế, bảo dung tha sao được. Tuy nhiên, Chúa thượng đã ban chiếu xuống triều thần nghị xử, tất có ý khoan dung, xin tứớng quân đừng ngại !

Nói xong, Chu Bột cùng bọn võ tướng kéo nhau đến Tướng phủ xin vào yết kiến Tiêu Hà.

Tiêu Hà hỏi:

- Các tướng đến đây có việc gì ?

Các tướng thưa:

- Chúng tôi được tin Chúa thượng giao Phàn Khoái xuống triều đình trị tội, vì vậy đến đây xin Thừa Tướng nghĩ đến công cứu giá nơi Hồng Môn, giảm tội cho Phàn Khoái.

Tiêu Hà nói:

- Nay Chúa thượng bị khốn nơi Bao Trung, ngày đêm lo tìm Ðại tướng để lo việc chinh Ðông. Hàn Tín là anh tài trong thiên hạ, Chúa thượng ủy thác việc ấy rất xứng đáng, thế mà Phàn Khoái cậy công khinh lờn phép nước, tội ấy khó dung. Tuy vậy, Phàn Khoái là các bậc công thần, làm sao tôi quên được việc cứu giá Hồng Môn, các tướng cứ yên tâm, tôi sẽ tùy nghi châm chước.

Các tướng mừng rỡ lạy tạ lui ra. Tiêu Hà cùng Lịch Sinh làm tờ nghị tội, dâng lên Hán vương:

"Ðại Thừa tướng là Tiêu Hà cùng đình thần cẩn án:

Xét thấy: Phàn Khoái lỗ mãng, dám ngăn xa giá, buông lời nói càn, làm mất phong thề triều đình nêu gương xấu trong tướng sĩ, phép công chiếu án, tội chết khó tha. Lại xét rằng: Phàn Khoái là bậc công thần, theo khởi nghĩa từ Phong Bái đến đây đã có công cứu giá nơi Hồng Môn. Vì vậy nay có khoan nhất thứ, nếu còn tái phạm, chiếu luật gia hình, không được miễn giảm.

Nay kính nghị."

Hán vương xem nghị xong, xuống chỉ rằng:

- Phàn Khoái cậy công khinh mạn, đáng lẽ không tha. Nay xét lời đình thần vừa tâu, cũng tạm dung thứ. Vậy truyền Phàn Khoái nên xét mình sửa lỗi, lập công chuộc tội theo dưới quân môn, tùy lệnh Nguyên soái. Nếu còn có ý bất mãn, hình phạt khó tránh. Khâm thử.

Phàn Khoái được lệnh, mừng rỡ tạ ơn, sang yết kiến Hàn Tín để thỉnh mệnh.

Hàn Tín nói:

- Lập công là chức phận của thần tử, thủ nghĩa là đại tiết của tôi hiền. ông dâu có công lớn, song chớ nên tự phụ, vì kẻ tự phụ không bao giờ đạt được kỳ công. Nay Chúa thượng đã tha thứ thì từ nay trở đi nên đoái công chuộc tội, danh ghi sử sách, để tiếng muôn đời. Tôi sẽ sẵn sàng che chở cho chẳng bao giờ có ý tư hiềm.

Phàn Khoái cúi đầu tạ ơn, rồi trở về triều ra mắt Hán vương.

Hán vương trông thấy Phàn Khoái ăn năn hối lỗi, cảm kích vô cùng, bước đến cầm tay nói:

- Tướng quân cùng ta khởi nghĩa từ Phong Bái, đồng cam cộng khổ, mấy năm trời không rời nhau, tình quyến luyến như ruột thịt. ấy vậy, tướng quân cần phải làm gương cho binh sĩ bảo vệ luật pháp, đề cao thể diện triều ca, cớ sao lại nóng nảy như vậy. May mà quần thần trọng tình tôi chúa, không nỡ hại công thần, nếu có bề nào tướng quân phải ngậm hờn nơi chín suối, còn ta phải ôm lòng sầu khổ suất đời chăng ?

Hán vương nói đến đây cảm động ứa hai dòng lệ.

Phàn Khoái cũng sụt sùi khóc, và nói:

- Hạ thần ngu dại, trót lỡ lầm, hối không kịp. Từ nay nguyện không dám nóng nảy nữa, đem tấm thân thừa này đền nợ quân vương.

Dứt lời, Phàn Khoái lui ra, đến dinh quan Thừa tướng lạy tạ, và nói:

- Nếu không có Thừa tướng thương tình, thì Khoái này không thoát khỏi tội chết, ơn tái tạo ấy chẳng biết lấy gì đáp đền cho xứng đáng.

Tiên Hà nói:

- Cái ngày chia đất phong vương tôi tưởng không còn xa lắm, tướng quân nên cố gắng lập công, bảo tồn lấy danh vọng.

Phàn Khoái tạ ơn, lui ra. Và từ đó, nhất nhất nghe theo mệnh lệnh của Hàn Tín, không dám sai suyển.

Cách mấy hôm, Hán vương triệu Hàn Tín vào triều hỏi:

- Ta rất nóng lòng việc Ðông qui. Chẳng hay lúc nào Nguyên soái định khởi sự.

Hàn Tín tâu:

- Hạng vương mới thiên đô về Bành Thành, không để ý đến phương Tây. Còn các nước chư hầu mới lập, nội trị chưa ổn.. Lúc này là lúc nên khởi binh. Xin Ðại vương giáng chỉ Ðông chinh, để hạ thần chỉnh đốn xuất quân tấn phát.

Hán vương nói:

- Ta sẽ y tấu.

Hôm sau, Hán vương phong Phàn Khoái làm Tiên phong, Tào Tham làm Quân chính, Ân Cái làm Giám quân, chỉnh bị binh mã, đợi ngày xuất chinh.

Hàn Tín được lệnh, lập tức thẳng đến giáo trường, tập họp binh tướng để thao diễn.

Sau khi duyệt qua một lượt, thấy quân sĩ hàng ngũ lộn xộn, quân pháp không rành, chiến thuật còn non nớt, liền gọi Lịch Tự Cư đến nói:

- Binh mã tuy đông, nhưng trình độ chiến đấu quá kém, chỉ có thể dùng giữ thành mà thôi, chứ chưa thể đem ra đánh trận được. Xin Tiên sinh chọn cho tôi bốn mươi người chữ tốt, viết hay, dùng để sao quyển binh pháp mà tôi đã bỏ công nghiên cứu lúc bình nhựt. Sao xong, giao cho mỗi tướng một bản, cứ theo phép đó mà luyện tập quân sĩ. Chỉ trong nửa tháng, kỹ thuật chiến đấu sẽ tinh vi và lúc đó mới có thể đem đi chinh chiến.

Lịch Tự Cư tuân lệnh lãnh binh thư trao cho các tướng sao lục.
Về Đầu Trang Go down
  • Trả lời chủ đề này

Bài gửi by Admin Wed Apr 22, 2015 6:21 am

Hán Sở tranh hùng Empty Re: Hán Sở tranh hùng

Admin
Admin
Administrator
Administrator

Tổng số bài gửi : 5122
Points : 8388
Reputation : 1360
Join date : 21/11/2014
Đến từ : Tp.HCM

https://ccxiqi.forumvi.com
Hồi 19

Chém Ân Cái, Hàn Tín giữ phép

Sửa Sạn đạo, Phàn Khoái lo thân

Lịch Sinh lãnh sách đem về sai 40 người chép lại, chỉ trong hai ngày là xong. Liền đem phân phát cho các tướng theo đó tập luyện quân binh.

Hàn Tín vào triều đem công việc mình đã làm tâu lại với Hán vương, rồi truyền các tướng ra nơi giáo trường duyệt binh:

Trong lúc tập luyện có vài tên quân trĩu phép, Hàn Tín sai chém đầu làm lịnh. Ba quân đều khiếp sợ, răm rắp tuân theo.

Chỉ trong hai mươi ngày, quân nào tướng ấy đâu đó chỉnh tề, hiệu lệnh không sai một mảy.

Một hôm, Hán vương thân hành đến xem duyệt binh, trông thấy Hàn Tín mặc nhung phục oai phong lẫm liệt tinh kỳ phất phới, vũ dũng khác thường, quân tướng kỷ luật rất nghiêm, lòng tấm tắc ngợi khen.

Hàn Tín bước đến tâu:

- Tâu Ðại vương, nhờ uy đức của Ðại vương, hạ thần đã rèn luyện quân sĩ được một kỹ thuật chiến đấu khá cao. Vậy xin Ðại vương ban cho tướng sĩ lời hiểu dụ để kích thích lòng phấn đấu của họ.

Hán vương y tấu, thảo lời chỉ dụ, rồi sai một viên quan hầu cận tuyên đọc:

"Sở Bá vương Hạng Vũ tàn bạo, giết vua Nghĩa Ðế, tàn sát muôn người, lại bội ước đoạt Hàm Dương tiêm xưng vương vị. Trăm họ một lòng phẫn nộ, mong thoát cảnh lầm than. Ta, nay vì dân, khởi binh trừ loạn, phong Hàn Tín làm Phá Sở Nguyên Nhung giữ việc chinh phạt. Ấy vậy binh tướng phải một lòng tùng phục để hoàn thành nhiệm vụ trọng đại chung của chúng ta. Kẻ trung với vua, chớ lấy việc bất bình nhỏ mà trái mạng, kẻ trung với nước không vì quyền lợi cá nhân mà bỏ quyền lợi chung. Sứ mệnh thiêng liêng đang cần sự góp sức của mọi người. Ba quân phải gìn lòng trung nghĩa. Nay chỉ dụ".

Binh tướng nghe lời chỉ dụ, im phăng phắc.

Hàn Tín lấy một tấm bảng, yết các điều luật nơi trước doanh trại như sau:

1) Nghe trống không tiến, nghe chiêng không lùi, phất cờ không dậy, ngã cờ không phục, đó là tội bội quân, phải chém.

2) Gọi đến không thưa lúc điểm quân vắng mặt, sai hẹn, trễ nải, đó là tội mạng quân, phải chém.

3) Ðêm nghe hiệu mõ không báo lại, giờ canh bỏ vắng, khẩu hiệu nói sai, cứng cổ khó răn, đó là tội hoạnh quân, phải chém.

4) Ðem oán hờn rêu rao trong qu ân sĩ, nói sau chủ tướng, không tuân mệnh truyền, đó là tội khi quân, cần phải chém.

5) Giáo gươm không sắc, cờ hiệu thất lạc, cung để đứt dây, tên bỏ mất cánh, đó là tội thất thoát, cần phải chém.

6) Bạ nói bạ cười, không tuân lệnh cấm, rượu chè be bét, tiết lậu quân tình, đó là tội khinh quân, phải chém.

7) Ðặt chuyện điêu ngoa, ma quái, làm rối lòng quân, khinh lờn chính lệnh, đó là tội ngoa ngữ, cần phải chém.

B) Ði đến đâu quấy nhiễu dân sự, hiếp chốc đàn bà đó là tội gian quân cần phải chém .

9) Lấy tài sản người làm của mình, đoạt công người làm công mình, đó là tội đạo quân, cần phải chém.

10) Lúc hành quân không chú ý đến lạc hàng ngũ, trái hiệu lệnh, đó là tội loạn quân, cần phải chém.

11) Giả ốm đau. lánh nặng tìm nhẹ, đó là tội trá quân, cần phải chém.

12) Không biết thương yêu, giúp đỡ đồng đội, để giặc uy hiếp mà không tiếp cứu đó là tội tệ quân, cần phải chém.

Mười hai điều cấm kẻ nào phạm, chiếu đó xử trị. Nay đặc lệnh.

Hán vương xem khắp doanh trại và đội ngũ một lượt lại xem đến tờ yết thị, tấm tắc khen thầm:

Quân mã ngày trước so với ngày nay khác một trời một vực. Trước kia như trò trẻ con, nay chẳng khác nào một mãnh hổ. Như thế lo gì việc Ðông chinh chẳng thắng.

Hàn Tín lạy tạ. Hán vương quay giá về cung.

Hôm sau, đầu trống canh năm, Hàn Tín lại đến giáo trường vào trung quân ngồi. Quan Tư thần đến trình giờ xong, Hàn Tín gọi chư tướng đến điềm diện.

Các tướng đều có mặt, chỉ thiếu quan Giám quân Ân Cái không đến .

Hàn Tín không nói gì cả, cứ đem quân ra thao diễn.

Ðến quá ngọ, Ân Cái mới ngất ngưởng từ ngoài bước vào.

Viên quan Thủ môn ngăn lại nới:

- Nguyên soái thao diễn quân mã đã nửa ngày rồi, tướng quân mới đến. Nếu muốn vào giáo trường phải đợi tôi báo với quan Tiểu kỳ giáp đã.

Nói xong, chạy vào báo với quan Tiểu kỳ giáp.

Quan Tiểu kỳ giáp lại báo với quan Chánh tư, và quan Chánh tư bẩm lên Hàn Tín.

Trong lúc đó Ân Cái đứng quắc mắt nhìn hành động của quan Thủ môn, và hét lớn:

- Gớm ! Rõ là đứa tiểu nhân đắc ý ! Việc gì lại nghi vệ đến thế?

Vừa dứt lời, có lệnh Hàn Tín đòi vào.

Ân Cái nghênh ngang bước vào tỏ vẻ tự đắc, không sợ sệt gì cả.

Khi đến, trước trướng, Ân Cái giơ tay vái dài, rồi đưa mắt nhìn quanh.

Hàn Tín ung dung nói:

- Trước Thánh thượng đã có lời hiểu dụ, sau đó, ta cũng có lệnh cấm, người làm chức Giám quân, cớ sao đến bây giờ mới tới. Như vậy còn gì là quân luật nữa.

Ân Cái đứng lặng thinh một lúc, rồi nghiễm nhiên đáp:

- Tôi cũng muốn tuân lệnh tướng quân, song vừa rồi tôi có vài người bà con sắp phải đi xa, nên làm mâm rượu tiễn hành, vì trót uống quá chén, không đến sớm được, xin Nguyên soái thứ dung.

Hàn Tín đập tay xuống bàn hét:

- Thế ra người coi bữa rượu hơn thượng lệnh !

Dứt lời hô võ sĩ trói Ân Cái lại.

Lúc bấy giờ Ân Cái mới có ý sợ sệt, dập đầu lạy, nói:

- Xin Nguyên soái vị tình một kẻ đã có công lớn với Chúa thượng, dung tha cho...

Hàn Tín chỉ vào mặt mắng:

- Người đã làm tướng há lại không biết ngày chịu mệnh vua tức là ngày phải bỏ nhà cửa, ngày chịu việc quân tức là ngày phải xa cha mẹ ! Lúc chiêng hồi trống giục tức là lúc phải quên thân mình sao ? Nay đã đem thân phò chúa còn tiếc miếng ăn à ?

Nói đến đây, Hàn Tín quay lại hỏi viên quan Chánh tư:

- Việc quân trễ biếng, quân luật định sao ?

Quan Chánh tư là Tào Tham lấy bản điều lệ ra xem, rồi đến trước trướng bẩm:

- Bẩm Nguyên soái, theo luật là tội phạm quân, phải chém.

Hàn Tín truyền lệnh đem Ân Cái ra chém.

Ân Cái mặt như chàm đổ, đưa mắt nhìn Phàn Khoái cầu cứu.

Phàn Khoái bấy giờ cũng đã biết phép, đành đứng nhìn không dám nói lời nào.

Quân đao phủ lôi Ân Cái ra viên môn.

Có người chạy về triều báo cho Hán vương biết.

Hán vương thất kinh, truyền đòi Tiêu Hà đến phán:

- Hàn Nguyên soái chưa ra quân mà đã chém mất một kiện tướng của ta, việc này e bất lợi. Thừa tướng nghĩ sao ?

Tiêu Hà nói:

- Tâu Ðại vương, trước khi ra quân, hiệu lệnh phải nghiêm minh. Hàn Nguyên soái chưa ra quân mà chém tướng tức là tỏ tài làm tướng của Hàn Nguyên soái đó. Xin Ðại vương cứ ủy thác cho Hàn Nguyên soái, đừng bận rộn.

Hán vương thở dài nói:

- Ðành vậy, song Ân Cái là người chí thân của ta, theo ta từ Phong Bái đến đây, lẽ nào tạ bỏ chết cho đành !

Tiêu Hà nói:

- Xưa có câu "Công pháp bất vị thân". Ðại vương nên vì thiên hạ, vì quốc gia, đừng vì người thân mà bỏ phép nước. Bỏ một ân Cái mà được thiên hạ thì có hại gì.

Hán vương sợ để lâu, Ân Cái chết mất, hến gọi Lịch Sinh đến bảo:

- Ngươi khá mang tờ chỉ dụ của ta, đến giáo trường truyền tha chết cho Ân Cái.

Lịch Sinh vâng mệnh, phi ngựa đến cửa quân, thấy Ân Cái đang bị trói dưới viên môn, còn quân đao phủ đang sắp sửa khai đao, liền gọi la:

- Khoan đã ! Khoan đã ? Chúa thượng có chiếu chỉ đến đây.

Miệng vừa nói, chân vừa bước sấn vào. Quan thủ môn trông thấy chạy đến cản lại, nói:

- Nguyên soái có lệnh cấm không ai được phép tự tiện vào cửa quân, cớ sao ngài lại vi phạm ?

Dứt lời nắm áo Lịch Sinh lôi thẳng đến trước trướng, bẩm:

- Bẩm Nguyên soái, người này tự tiện cời ngựa xông vào quân trung, tiểu tướng không ngăn được, phải dẫn vào đây bẩm báo..

Hàn Tín thấy Lịch Sinh liền hỏi:

- Lệnh quân đã cấm, Lịch Ðại phu là người có học thức lẽ nào không biết điều ấy ?

Lịch Sinh biết mình có lỗi, liền nói:

- Tôi vì có chiếu vua rất gấp nên vội vã vào đây, trái lệnh Nguyên soái, xin Nguyên soái châm chước !:

Hàn Tín nói:

- À ! Thế là quan Ðại phu phụng chiếu Chúa thượng đến đây sao ?

Liền quay qua hỏi quan Chánh tư:

- Xông đột vào trung quân phạm tội gì ?

Tào Tham thưa:

- Cũng phải chém đầu làm lệnh.

Hàn Tín ung dung nói:

- Theo luật thì thế, song Lịch Ðại phu phụng chỉ đến đây, vậy chém lấy đầu ngựa để giữ phép. Còn Ân Cái thì phải lấy đầu, không được trễ nải.

Quân đao phủ được lệnh chém đầu Ân Cái và chém đầu ngựa Lịch Sinh đem nạp trước trướng.

Ba quân trông thấy đều khiếp vía.

Lịch Sinh khỏi chết, vội vã chạy về tâu với Hán vương:

- Tâu Ðại vương, hạ thần phụng mệnh đến cứu Ân Cái bất đồ phạm phải luật "xông đột trung quân.'. May mà nhờ có chiếu chỉ Ðại vương mới được thoát chết, song cũng bị chém mất đầu ngựa để thị chúng. Còn Ân Cái thì đã rơi đầu rồi, không còn cứu kịp nữa.

Hán v­ơng nổi giận, hét:

- Ðã có chiếu chỉ của ta mà Hàn Tín vẫn không tha chết cho Ân Cái, thật là.đứa khi quân vô lễ...

Tiêu Hà vội quỳ tâu:

- Theo quân luật: Viên tướng đang cầm quân cũng có lúc không tuân mệnh vua ! Ðó chính là cái quyền khổn ngoại của kẻ làm tướng, xin Ðại vương chớ nên trách.

Hán vương hỏi:

- Hàn Tín dụng ý gì mà chém Ân Cái ?

Tiêu Hà nói:

- Ân Cái là người thân thích của Ðại vương. Giết Ân Cái, Hàn Nguyên soái đã trấn áp được ba quân, làm cho quân sĩ chỉ biết có chủ tướng mà không biết đến ai nữa cả. Binh pháp có nói: "Quân biết sợ chủ tướng thì đánh đâu cũng thắng, quân mà sợ ngoại địch thì không mong gì thắng được ai". Hàn Nguyên soái làm như thế Ðại vương nên mừng mới phải.

Lịch Sinh nối lời tâu:

- Hàn Nguyên soái uy phong rất nghiêm. Tôi tưởng Hạng Vũ sau này không khỏi chết về tay Hàn Tín. Xin Ðại vương giáng chỉ ban khen, một là làm vui lòng Hàn Tín, hai là tăng khí ba quân. Uy vũ Hàn Tín càng tăng bao nhiều, tức là hồng phúc của Ðại vương càng to bấy nhiêu xin Ðại vương chớ ngại.

Hán vương thấy hai người một ý cũng đổi giận làm vui phán:

- Hai khanh đã bảo tấu, ta cũng nhận lời.

Liền viết sắc thư sai quân cận thần là Chu Nguyên Thần đem dê rượu đến của quân ban thưởng.

Nghe có vương mệnh đến, Hàn Tín lật đật bày hương án bái mạng.

Vương sứ đọc sắc thư như sau:

"Ðạo làm tướng nếu không trọng pháp luật thì sao chế ngự được ba quân ? Tôn Vũ xưa có chém Ngu Cư mới ban hành được nghiêm pháp. Lời xưa lại có nói: " Pháp bất vị thân ". Tôn Vũ vốn biết Ngu Cư là người yêu của vua mà vẫn phải chém. Hàn Nguyên soái biết Ân Cái là người thân của ta mà vẫn không tha. Thế mới đáng là kẻ cầm quân khiển tướng. Giết một Ân Cái mà nghìn người phải sợ, quân lực uy nghiêm, ta rất bằng lòng. Nay sai quan cận thần Chu Nguyên Thần mang dê, trợn đến thưởng Nguyên soái. Nguyên soái cứ phép mà làm, mau mau phất cờ dẹp loạn, cứu dân, khỏi phụ lòng mong của ta. Nay sắc".

Hàn Tín nghe đọc sắc thư, cúi đầu lạy tạ, rồi theo Chu Nguyên Thần vào triều tạ ơn.

Hán vương nói:

- Ta rất hài lòng tướng quân. Từ nay tướng quân dùng phép cứ nghiêm như thế mới được.

Hàn Tín nói:

- Muôn tâu Ðại vương, hạ thần chịu ơn tri ngộ của Ðại vương dẫu bỏ thân nơi chiến trường nợ chưa đền đáp đặng. Nay nắm trong tay mấy mươi vạn sinh mệnh, nếu quân pháp không nghiêm, làm.không tròn nhiệm vụ, để phụ ơn Ðại vương thì tội chăng nhỏ. Vì vậy, hạ thần đã tòng quyền khổn ngoại, may được Ðại vương tưởng đến làm cho quân sĩ thêm uy, thật hạ thần lấy làm cảm đức.

Hán vương cầm tay Hàn Tín dắt lên cùng ngồi bàn việc quân cơ. Mãi cho đến lúc trăng lên đỉnh đầu, Hàn Tín mới trở về dinh.

Cách mấy hôm sau, Hàn Tín gọi Phàn Khoái đến trướng bảo:

- Tướng quân làm chức Tiên phong, phải vì quốc gia tận lực. Nay mai Chúa thượng xuất giá Ðông chinh, mà đường Sạn đạo khi xưa đã bị Tử Phòng đốt rồi, quân mã không làm sao đi được. Nay tướng quân phải đem một vạn nhân mã, sửa sang lại con đường đó. Ta cho Chu Bột cùng Trần Vũ đi theo giúp sức, hạn trong một tháng phải sửa sang xong, nếu sai lệnh sẽ chiếu quân luật trị tội.

Tướng quân nên đi ngay, chớ vì khó nhọc mà bất bình.

Phàn Khoái nghe nói, ướt mồ hôi, sợ hãi thưa:

- Nguyên soái đã sai thì dẫu chết tôi cũng chẳng dám từ. Tuy nhiên, con đường Sạn đạo nguy hiểm vô cùng dài hơn ba trăm dặm, nếu muốn tu bổ phải ba năm chưa chắc đã xong, huống hồ chỉ trong một tháng thì làm sao hoàn thành được. Thôi, nếu Nguyên soái muốn giết Khoái này, thì Khoái này xin chịu chết ngay trước trướng.

Hàn Tín vừa cười, vừa nói:

- Tướng quân nghĩ lầm rồi ? Việc gì ta lại muốn giết tướng quân ! Phàm kẻ làm tôi, gặp việc không nên sợ khó, nếu sợ khó chẳng bao giờ làm được chuyện phi thường. Tướng quân tự hào là trung nghĩa, can đảm hơn người, vậy phải nhân dịp này làm cho thiên hạ thấy cái trung nghĩa và can đảm ấy, cớ sao lại lo sợ ?

Phàn Khoái muốn nói nữa nh­ng lại sợ phạm quân luật đành phải thở dài lui ra.

Phàn Khoái đi rồi, Hàn Tín liền ra diễn trường chỉnh đốn nhân mã, truyền chư tướng đem quân ra duyệt lại một lần nữa. Lần này pháp luật đâu đó nghiêm minh, không ai còn vi phạm nữa, chiến thuật tuyệt vời.

Hàn Tín thân đến yết kiến Hán vương, tâu:

- Hạ thần đã thao luyện quân mã xong, xia mời Ðại vương ngự lãm.

Hán vương nói:

- Lần trước đã thấy tướng quân trù hoạch khác thường, quân cơ tinh xảo. Nay lại thao luyện hơn một tháng nữa, chiến thuật tất tuyệt vời, ta cần gì phải xem nữa ?

Tiêu Hà bước tới tâu:

- Ngày xuất chinh sắp đến, xin Ðại vương xem xét tường tận để an lòng ngự giá.

Hán vương theo lời, thẳng đến giáo trường, thấy cơ nào đội ấy, gươm giáo sáng lòa, cờ hiệu uy nghi, nhân mã tề chỉnh, tiến thoái có kỷ cương, ngồi đứng theo khuôn phép, liền ban lời, bảo các tướng:

- Hàn Nguyên soái dùng binh như thế này dẫu Tôn, Ngô ngày xưa cũng chưa hơn đặng. Ta rất hài lòng, và ngợi khen tinh thần cố gắng của các tướng và toàn thể binh sĩ.

Ðoạn ngoảnh lại hỏi Hàn Tín:

- Nguyên soái liệu sức quân bây giờ đã Ðông chinh được chưa ?

Hàn Tín quỳ tâu:

- Tâu Ðại vương, hạ thần đã sai Phàn Khoái đi sửa Sạn đạo rồi, hạn trong một tháng phải xong.

Hán vương ngạc nhiên, nói:

- Sạn dạo gian nguy, lên ghềnh xuống thác, dài hơn ba trăm dặm. Công trình vĩ đại ấy dẫu ba năm chưa chắc đã xong, Nguyên soái trù liệu một tháng thì làm sao thành việc ?

Hàn Tín tâu:

- Việc quân cơ có nhiều chuyện lạ, xin Ðại vương cứ an tâm, chẳng bao lâu hạ thần sẽ rước Ðại vương ngự giá Ðông chinh, xin Ðại vương đừng hỏi vội.

Hán vương hiểu ý, không hỏi nữa, mời Hàn Tín cùng mình dùng ngự thiện. Trong tiệc, Hán vương chỉ ăn qua loa, các món ngon vật lạ đều ban cho Hàn Tín hết .

Tiệc xong, Hán vương ngự giá về triều, Hàn Tín bái tiễn ra khỏi cửa quân, rồi truyền lệnh cho Phàn Khoái phải cấp tốc đi ngay.

Phàn Khoái dẫn một vạn nhân phu đến Sạn đạo, thấy núi non trùng điệp, khe suối quanh co, đèo cao chót vót vực thẳm muôn trùng, chỗ đường cũ trước kia bị đốt giờ đây cây cối um tùm, không chỗ chen chân, dấu cũ không còn nhìn thấy nữa. Cả đoàn nhân phu chỉ nhìn nhau than thở, không biết làm cách nào để khởi công.

Phàn Khoái nghĩ thầm:

- Thôi rồi ! Thế này là Hàn Nguyên soái không dám phá Sở, nên sai ta đi làm cái chuyện khó khăn này để lấy cớ Sạn đạo chưa xong, không bao giờ rả quân cả.

Nghĩ rồi, Phàn Khoái nói với dân phu:

- Việc làm hiểm trở như vầy dẫu cho m­ời vạn dân phu, làm suất ba năm chưa chắc đã xong. Nay quân lệnh rất nghiêm, Chúa thượng lại đang tin Nguyên soái, nếu chúng ta không tiến hành ắt rơi đầu, chi bằng cứ làm, đến đâu hay đến đó.

Dân phu theo lời, xúm nhau chát cây, đốn gỗ.

Nhưng sức người yếu ớt không thấm vào đâu cả. Làm luôn mấy ngày mà chỉ phát được một đoạn đường đi không lọt một con ngựa.

Phàn Khoái ngước mặt lên trời than:

- Chà ? Thật đáng giận cho Tử Phòng ! Ðốt Sạn đạo làm gì để ngày nay lụy đến Khoái này ?

Trọng lúc đang lo buồn chợt thấy quan Thái Trung Lục Giả dẫn một nghìn quân ky đến, đưa cho Phàn Khoái một phi hịch.

Phàn Khoái mở ra đọc. Hịch rằng:

" Ðại Hán phá Sở Nguyên soái Hàn Tín lưu ý Phàn tướng quân. Nay mai Ðại quân sẽ Ðông chinh, vậy phải kíp sửa sang Sạn đạo lập ngày đã định. Nếu quá hạn chiếu theo quân pháp trị tội. "

Phàn Khoái đọc hịch xong dậm chân kêu trời, nói:

- Nguyên soái đình giết Khoái tôi rồi ! Ðường sá thế này mà hạn một tháng, dẫu thợ trời cũng chưa làm xong, huống chi chúng tôi là người phàm xác thịt.

Nói rồi buồn bã dẫn Lục Giả về trại dân phu để thết đãi

Nhân lúc vắng người, Lục Giả ghé tai bảo nhỏ Phàn Khoái mấy câu:

Phàn Khoái mừng rỡ, nét buồn đổi ra nét hân hoan. Tuy nhiên vẫn làm ra vẻ khệnh khạng; nói giữa đám dân phu:

- Công trình to tát thế này mà Nguyên soái bảo một tháng phải làm xong. Khoái tôi phen này chắc chết.

Dân phu thấy vậy cũng thương thầm cho số phận Phàn Khoái.

Hôm sau, Phàn Khoái viết biểu sai người về triều dân cho Hán vương.

Biểu rằng:

"Muôn tâu Ðại vương. từ lúc hạ thần theo.phò Ðại vương đến nay không có công việc nào dám để bê trễ. Nay tu bổ Sạn đạo là công trình vĩ đại, Nguyên Soái chỉ cấp có một vạn dân phu, hẹn một tháng phải hoàn thành, nếu không phải tội chết. Thiết nghĩ: dẫu hạ thần có gắng sức đến đâu cũng vô ích. Chẳng ai có thể làm công việc quá sức người được.

Cái chết của hạ thần tất không tránh khỏi. Nếu Ðại vương thương tình, xin xuống chiếu truyền dân các quận quyện lân cận, điền bát cho một vài vạn dân phu nữa, may ra có thề gỡ được nguy cơ trước mắt !

Khoái tôi muôn phần sợ hãi cúi dâng biểu kính xin ơn trên soi xét."

Hán vương xem biểu xong, lập tức sai Ngự sử là Chu Bột, cầm một đạo sắc, hỏa tốc đến quận Phổ An bắt một vạn dân phu giao cho Phàn Khoái.

Phàn Khoái được thêm dân phu mừng rỡ, kêu Chu Bột, Trần Vũ đến chia ra làm nhiều toán mỗi toán có một toán trưởng coi làm.

Ðoạn kề vào tai Chu Bột và Trần Vũ nói nhỏ mấy câu.

Ðêm ấy, hai tướng, mỗi người dẫn một đoàn dân phu tinh tráng thay đổi y phục, vượt núi ra đi.
Về Đầu Trang Go down
  • Trả lời chủ đề này

Bài gửi by Admin Wed Apr 22, 2015 6:21 am

Hán Sở tranh hùng Empty Re: Hán Sở tranh hùng

Admin
Admin
Administrator
Administrator

Tổng số bài gửi : 5122
Points : 8388
Reputation : 1360
Join date : 21/11/2014
Đến từ : Tp.HCM

https://ccxiqi.forumvi.com
Hồi 20

Bắt Chương Bình, Hàn Tín dấy binh

Biệt Bao Trung. Hán vương tỏ lượng

Từ khi Chương Hàm được phong làm Ung vương, trấn Tam Tần, sai cháu là Chương Bình vào giữ ải Ðại Tản Quan để đề phòng quân Hán Trung.

Chương Hàm lại hạ chỉ truyền rằng: "Phải giữ vững cửa quan, hễ có tin tức gì không được án động, phải cấp báo với Tam Tần để liệu đường phòng bị."

Nay, nhân nghe tin Hán vương dùng Hàn Tín làm Nguyên Soái; lại nghe báo Phàn Khoái làm Tiên phong, tu bổ Sạn đạo, để hưng binh Ðông chinh, Chương Bình lập tức phi báo với Ung vương.

Chương Hàm nghe báo cười lớn, nói với kẻ tả hữu:

- Hàn Tín trước kia ở Sở là một tên vác giáo theo hầu, nay bỏ Sở về Hán, chẳng qua cũng chỉ để sai khiến mà thôi, không biết vì lẽ gì mà Hán vương lại phong làm Nguyên Soái ? Vả Hàn Tín là kẻ đê tiện thuở hàn vi làm lắm chuyện hèn mạt, nhất đán được phong làm tướng thì ba quân còn ai phục, làm sao điều khiển nổi chư tướng ?

Lại như Sạn đạo dài ba trăm dặm, đã bị đốt phá mà tu bổ lại thì biết bao giờ mới xong ? Cách hành binh ấy chẳng qua là mưu trí của đứa tiểu nhân, làm trò cười cho thiên hạ.

Tả hữu nghe Chương Hàm nói, tỏ ý ean:

- Phạm quân sư đã từng căn dặn Ðại vương phải lưu tâm đề phòng quân Hán, nhất là từ khi Hán vương dùng Hàn Tín làm tướng. Nay quan trấn thủ đã cấp báo đó là chuyện chẳng lành, xin Ðại vương chớ khinh thường.

Chương Hàm nói:

- Sạn đáo là nơi hiểm trở, việc tu bổ không phải ngày tháng mà xong được. Nếu chưa sửa xong Sạn đạo dẫu quân Hán có cánh bay lên trời cũng không vượt được sang Ðông. Ngay bây giờ ta đề phòng là vô ích, chờ lúc chúng sửa gần xong Sạn đạo sẽ hay.

Chương Hàm vẫn điềm nhiên, không lo lắng gì cả.

Chương Bình thấy vậy cũng bỏ hếu, không tâu báo nữa, ngày đêm rượu chè be bét cùng với quân sĩ vui thú tiêu dao.

Rồi một hôm, bỗng có quân giữ cửa vào báo:

- Có một trăm dân phu tu bổ Sạn đạo, không chịu nổi sự khổ sở, trốn đến đây xin đầu hàng.

Chương Bình vỗ tay cười lớn, nói:

- Ta đang muốn biết nội tình của chúng. Thế là gặp dịp lắm ? Hãy truyền cho chúng nó vào.

Quân sĩ vâng lệnh, ra dẫn bọn dân phu vào.

Ch­ương Bình hỏi:

- Bọn ngươi ở xứ nào đến đây, có việc chi ?

Dân phu phục xuống đất lạy dài, kêu khóc và nói:

- Chúng tôi là tráng đinh quận Phổ An, bị Hán vương bắt đi làm Sạn đạo, ngày đêm cực nhọc, đói rét, Phàn Khoái lại là người nóng nảy, đánh đập luôn tay. Vả chăng, Sạn đạo là con đường hiểm trở, mà bắt phải làm một tháng cho xong thì không thể nào làm nổi. Hán vương lại dùng Hàn Tín làm Nguyên Soái, ba quân không phục bỏ trốn rất nhiều. Chúng tôi chắc không sao thành sự được Vì vậy chúng tôi đến đây, nguyện núp bóng tướng quân, đem thân lập công. Trong đoàn chúng tôi có hai người Tổng giáp võ nghệ tinh tường, có thể giúp ích cho tướng quân sau này được. Xin tướng quân vui lòng thu nhận.

Chương Bình cho gọi hai người Tổng giáp đến hỏi:

- Hai ngươi tên gì ?

Bẩm tướng quân, chúng tôi là phường săn ở quận Phổ An, một người tên Diêu Long, một người tên Ngân Vũ Vì Hán vương bắt phu tu bổ Sạn đạo, không có người trông coi, nên bản quan bắt hai tôi làm Tổng giáp. Không ngờ, lúc đưa phu đến nơi, thấy Sạn đạo gian nan, công việc trăm phần cực nhọc, đã không cơm ăn, lại bị đánh đập tàn nhẫn. Chúng tôi không dám trốn về bản quận nên phải đến đây tình nguyện theo tướng quân lập thân, chờ lúc thiên hạ thái bình sẽ trở về quê quán.

Chương Bình lại hỏi:

- Vì sao Hán vương lại dùng Hàn Tín làm Ðại tướng, các ngươi có biết chăng ?

Bẩm tướng quân, Hàn tín có tánh khoe khoang được Tiêu Hà phục tài tiến cử, và Hán vương nghe theo lời Tiêu Hà trọng dụng. Thực ra, tướng sĩ không ai phục cả. Chính Phàn Khoái cũng đem lòng căm giận mà chẳng dám nói ra. Lúc này Hán vương cũng vì lẽ đó mà bối rối lắm.

Chương Bình nghe hai người nói đúng với lời đồn đãi nên tin lời thu dụng ngay.

Hai người từ khi đắc dụng, tỏ ra tận tụy hơn người.

Mọi việc được giao phó đều thi hành rất chu đáo. Bởi vậy, Chương Bình rất yêu dùng. Chỉ trong một tháng đã cho

hai người làm chức Ðại Kỳ Bài việc lớn nhỏ đều đem ra bàn luận.

Giữa lúc ấy Phạm Tăng đang ở Bành Thành, một hôm xem thiên văn thấy phương Tây Nam vượng khí ngất trời, các vì sao sáng đều chầu về phía ấy, biết là họ Lưu đang hưng ở Hán Trung. Lại nghe tin Hàn Tín bỏ Sở về Hán được trọng dụng, lòng rất lo lắng.

Kế có tin các nước chư hầu lăm le nổi dậy, nhất là nước Tề, binh thế mạnh lắm. Phạm Tăng liền vào triều, đem các việc lợi hại bày tỏ với Bá vương.

Bá.vương đòi Quí Lương và Quí Bằng đến bảo:

- Hai người hãy đem ba nghìn quân sĩ thẳng tới Phế Khâu, hội với Ung vương, phòng cửa Tản Quan, và tuần tiểu các nơi hiểm yếu đề phòng Hán chúa.

Hai tướng lảnh mệnh đến Phế Khâu vào yết kiến Chương Hàm, chuyển lại lời dặn của Bá vương.

Chương Hàm nói:

- Chúa thượng quá lo xa, Phạm quân sư có tánh sợ địch. Việc này đâu có gì quan trọng mà phải nhọc lòng như vậy ?

Bèn thuật lại việc các dân phu nơi Sạn đạo đến đầu hàng cho Quý Lương và Quý Bằng nghe.

Hai tướng đồng nói:

- Cứ như việc này dẫu Hán vương có hưng binh cũng không làm gì nổi ! Lâu nay Phạm quân sư nghe tin Hán vương trọng dụng Hàn Tín đem lòng lo sợ. Tuy nhiên, chúng tôi thiết tưởng Hàn Tín là kẻ đê tiện, không nuôi nổi thân mình, đi xin cơm ăn, chịu luồn trôn gã bán thịt, nay dẫu làm tướng cũng chẳng ai phục. Và Sạn đạo hiểm trở mười phần, dễ gì tu bổ cho xong.

Chương Hàm cười tít mắt, hối quân đặt tiệc thiết đãi Quý Lương và Quý Bằng.

Trong tiệc, Quý Lương nâng chén nói với Chương Hàm:

- Tuy chúng ta không cần lo lắng, song lệnh Bá vương đã truyền, chúng ta cũng nên điều bát nhân mã, lập thành đồn trại cho có hình thức để khỏi bị khiển trách.

Chương Hàm nghe theo, hến viết hịch truyền các quản hạt lưu tâm phòng giữ, và viết thư gởi dặn Chương Bình chớ nên trễ tràng.

Giữa lúc đó, nơi Hán Trung, Hàn Tín chuẩn bị quân mã đã xong, xin với Hán vương chọn ngày xuất quân .

Tướng sĩ hay tin đều ngơ ngác bảo nhau:

- Sạn đạo chưa tu bổ xong mà Nguyên soái chọn ngày khởi binh thì không biết phải đi lối nào ?

Ai nấy đều hồ nghi, nhưng không dám hỏi.

Hán vương nghe Hàn Tín xin thỉnh giá xuất chinh, liền đòi Tiêu Hà vào hỏi:

- Phàn Khoái sửa sang Sạn đạo chưa xong, Hàn Nguyên soái lại xin xuất quân là ý làm sao ?

Tiêu Hà cũng không biết được, xin phép sang dinh Hàn Tín để hỏi cho tường tận.

Tiêu Hà đến nơi, Hàn Tín vội vàng mũ so ra đón chào.

Tiêu Hà theo Hàn Tín vào thính đường, hỏi nhỏ:

- Nguyên soái vừa xin thỉnh giá xuất chinh, Chúa thượng rất nghi ngờ về việc Sạn đạo chưa làm xong, không biết quân sĩ phải đi lối nào, nên sai tôi đến hỏi Nguyên soái.

Hàn Tín mỉm cười nói:

- Thừa tướng khéo giả vờ hỏi tôi. Trước kia Tử Phòng đốt Sạn đạo tất đã tìm ra lối khác rồi. Việc ấy lẽ nào Thừa tướng không biết đến.

Tiêu Hà ngập ngừng nới:

- Tôi cũng biết, nhưng không rõ lắm. Và lại Chúa thượng thấy Nguyên soái sai Phàn Khoái đi sửa Sạn đạo, đem lòng nghi hoặc, xin Nguyên soái nói rõ phương lược để Chúa thượng an tâm.

Hàn Tín nhìn quanh, thấy không có ai, liền kế tai nói nhỏ với Tiêu Hà:

- Ðó là cái kế giả danh đi sửa Sạn đạo cho bọn Chương Hàm không phòng bị. Chúng ta lẻn đi lối Trần Xương, chỉ trong năm ngày có thể đến Tản Quan được. Chừng ấy Chương Bình dẫu có cánh cũng không thoát khỏi tay ta. Không cần mất một mũi tên cũng lấy được Tản Quan rồi. Ngu ý định thế, xin Thừa tướng về tâu lại với Chúa thượng.

Tiêu Hà mừng rỡ liền trở về tâu với Hán vương.

Hán vương nghe xong, lòng rất han hoan, cho là diệu kế; liền truyền lệnh vặn vũ sắp sửa xa giá Ðông chinh.

Hôm sau, Hàn Tín đến giáo trường, kiểm điểm nhân mã, tất cả hơn bốn mươi lăm vạn, chia làm bốn đại đội.

Lại sai nha tướng Tôn Hưng đến thay cho Phàn Khoái đôn đốc việc sửa Sạn đạo, và chỉ để ở đấy ba nghìn dân phu mà thôi, còn bao nhiêu rút về điều dụng.

Trong bốn đạo quân, Phàn Khoái thống suất đội thứ nhất, đi tiên phong, đem theo tám viên bộ tướng, gặp núi mở đường, gặp suối bắc cầu, gặp khó khăn phải phi báo cho hậu quân biết .

Chu Anh thống suất đội quân thứ hai, đem theo mười viên kiện tướng, thấy đạo tiên phong thắng thế thì thúc quân, thấy thất bại thì tiếp ứng. Nếu gặp việc nguy cấp phải báo cho hậu quân biết.

Hàn Tín bản thân thống lanh đội quân thứ ba, đem theo bốn mươi viên kiện tướng. Trong đó lại chia ra làm bốn đội nhỏ, tiến thối theo hiệu lệnh đã định.

Sau cùng, là đội quân thứ tư do Hán vương cùng các quan văn vũ thống lĩnh. Hàn Tín lại sai Phó Khoan và Chu Xương giám phu để hộ giá.

Ðiều bát xong, Hàn Tín mời Hán vương ngự xa giá ra nơi đồi cao, để xem lễ xuất quân.

Hán vương thấy quân dàn theo chín cung, bốn tượng, tinh kỳ rực rỡ, hiệu lệnh nghiêm minh, tùy theo tài sức của mỗi người mà dùng, lòng rất cảm phục.

Hàn Tín bước đến trước xa giá tâu:

- Hạ thần xin đem quân đi trước hai ngày. Ðại vương sẽ ngự giá theo sau. Qua khỏi cửa quan hạ thần xin nghênh tiếp.

Hán vương nhậm lời, Hàn Tín ra lệnh ba quân lên đường tấn phát:

Hai hôm sau, Hán vương xa giá lên đường. Nhân dân già trẻ dắt nhau ra nơi vệ đường lạy mừng tâu:

- Chúng tôi sinh trưởng ở Bao Trung, chưa lúc nào được xem binh tướng hùng mạnh như vầy.

Hán vương hớn hở hỏi Tiêu Hà:

- Trước đây ta đã truyền cho Thừa tướng tập hợp các bô lão để hiểu dụ, chẳng hay Thừa tướng đã làm cái chuyện đó chưa ?

Tiêu Hà tâu:

- Muôn tâu Ðại vương, mấy hôm nay bá tánh thấy Ðại vương sắp sửa Ðông chinh, đoán rằng Ðại vương thế nào cũng lấy Hàm Dương, đóng đô ở đó, nên đem lòng mến tiếc, cùng nhau rủ đến tỏ lòng ái mộ. Hiện nay đủ mặt cả ở trước đường.

Hán vương nói:

- Nếu vậy Thừa tướng truyền chỉ cho họ đến đây.

Tiêu Hà lãnh mệnh, bước ra truyền chỉ. Dân chúng ùa nhau kéo đến đứng vòng quanh xa giá chật mạch, một hàng dài ước độ vài dặm đường.

Hán vương bước xuống xe. Một bô lão thay mặt bước đến quỳ xuống đất tâu:

- Tâu Ðại vương, từ khi Ðại vương đến đất Bao Trung, mưa thuận gió hòa, muôn dân lạc nghiệp, ngoài đường không ai nhặt của rơi, trong nhà tối không cần đóng cửa. Thật là cảnh tượng đời Nghiêu, Thuận thuở xưa. Chúng tôi chưa có dịp đền đáp. Nay Ðại vương kéo quân chinh phạt phương Ðông chắc là nhất cử công thành biết thuở nào dân Bao Trung chúng tôi còn thấy mặt long nhan nữa.

Vị bô lão vừa dứt lời, dân chúng đều phục xuống đất khóc òa. Tiếng khóc vang ra xa hơn năm dặm.

Hán vương cũng động lòng rơi lệ, nói:

- Ta vì muốn cho thiên hạ thoát khỏi ách bạo tàn của Bá vương, nên phải xa dân chúng Bao Trung này. Lòng ta thực không nỡ. Nay ta để Thừa tướng Tiêu Hà ở lại đây bảo bọc, giữ việc trị an cho muôn dân.

Dân chúng đều giơ tay reo to:

- Nếu được Tiêu Thừa tướng ở lại đây, thật là hành phúc cho dân chúng tôi lắm.

Hán vương sai viên quan cận thần đọc lời hiển dụ.

Dụ rằng:

"Xưa đấng minh vương trị dân cột lấy nhân nghĩa làm đầu, trước hết phải nặng về giáo hóa. Ta từ khi đến đất này, sớm tối chăm lọ trau dồi đạo đức cốt đem cái gương ấy cho trăm họ noi theo. Vậy nay hiểu dụ cho ai nấy biệt, trong đời sống không có gì quý hơn là đạo đức.

Ðạo đức giúp cho loài người tạo một đời sống tươi đẹp tuyệt vời. Một nhà có gia trưởng, một làng có hương trưởng.

Làm gia trưởng phải dạy bảo con em, tôn trọng nghĩa nhân, thấm nhuần đạo lý. Cha tỏ lòng nhân, con đội chữ hiếu, anh thuận, em kính, lấy lễ giáo làm phương châm, đó là hạnh phúc của gia đình. Làm hương trưởng phải biết thương dân, phải mưu cơm áo cho mọi người, khuyến khích nghề nghiệp, sĩ, nông, công, thương, đều là những nghề quí hóa ! Sĩ thì tư minh nghĩa lý, chăm chỉ học hành, nông thì lo cày cấy cho thóc lúa dồi dào, công thì phải chuyên nghề nghiệp, tập luyện cho tinh, thương thì phải thật thà lấy chữ tín làm danh dự. Như thế, thôn xóm tất yên vui, ai ai mà không lạc nghiệp. Còn như muốn được an cư, mỗi người phải tự coi mình có trách nhiệm với lệ luật. Chớ cờ bạc, dâm đãng, chớ ganh tị kiện cáo nhau, chớ trộm cắp rượu chè. Mọi quyền lợi cá nhân đều đặt dưới tình thương nhân loại.

Như thế phong tức sẽ thuần mỹ, trăm họ thái bình, đó là hạnh phúc của làng.

Mấy lời truyền dụ, bá tánh phải ghi lòng. Nay dụ."

Lúc đó là đầu tháng tám, năm ất vị, Ðại Hán nguyên niên.

Hán vương truyền dụ xong, nói với Tiêu Hà:

- Thừa tướng ở lại Bao Trung vỗ an trăm họ, giúp dân cày cấy làm ăn, lấy nhân đức thay cho hình phạt, gần người hiền, xa kẻ dữ, chứa sẵn lương thực để cấp cho quân lính. Ðó là trách nhiệm của Thừa tướng.

Tiêu Hà cúi lạy, lãnh vương mệnh.

Hán vương truyền lệnh ba quân lên đường, nhắm hướng Ðông tiến phát.

Nhắc lại Hàn Tín lãnh ba đội quân đi trước, ra khỏi bao Trung, không theo lối Sạn đạo, mà theo đ­ờng nhỏ đến Cô Vân, vòng theo chân núi Lưỡng Cước.

Tuy khúc đường hiểm hóc, song nhờ Phàn Khoái đi trước đốn cây xẻ đường, bắc cầu, chẳng bao lâu đã đến sông Hán Khê.

Nơi đây, đàng sá rộng rãi nhơn, Hàn Tín nói với chư tướng:

- Ngày trước tôi một người một ngựa, đang đêm trốn đến sông Hán Khê này, gặp khi nước đang dâng cao, không

sang sông được Tiêu Thừa tướng đuổi theo kịp, thỉnh tôi về, nếu không hôm nay tôi đã ở Hoài Âm rồi.

Chư tướng đều nói:

- Ðó thật là lòng trời muốn giữ Nguyên soái ở đây phò Hán diệt Sở đó. Vậy xin lưu lại nơi đây một vật kỷ niệm.

Hàn Tín liền sai dựng một tấm bia đá trên đỉnh núi, khắc tám chữ: " Hán Thừa tướng thỉnh Hàn Tín chi lộ ".

Ðoạn truyền quân sĩ sang sông thẳng tiến.

Ðường tuy rộng, nhưng đá gập ghềnh, quanh co, tướng sĩ đều phải xuống ngựa đi bộ, lúc lội suối, lúc trèo đèo lúc leo ghềnh, khi xuống dốc, thật vất vả.

Mặc dầu khổ cực. song quân sĩ phần nhiều ở phương Ðông, nay được dịp hồi hương, lòng hân hoan ấy thắng mọi gian lao.

Ðoàn quân đang ồ ạt tiến bước, bỗng có quân tiền đội trở lại báo:

- Bẩm Nguyên soái, phía trước, nơi rừng rậm, có một con rắn độc dài hơn hai trượng, hai mắt long lanh, miệng há đỏ chót, trông rất ghê sợ, đang nằm giữa đường, xin Nguyên soái liệu định.

Hàn Tín nói:

- Rắn chặn ngang đường chỉ nên sai cung thủ dùng tên độc mã bắn, còn các pháo thủ phải chuẩn bị sẵn để phòng cứu nguy.

Chúng quân được lệnh, cung tên sẵn sàng, kéo nhau núp nơi khe núi để mưu hạ thủ rắn độc.

Giữa lúc đó, có một viên tướng từ trung quân bước ra, nói với Hàn Tín:

- Một con rắn chặn đường có gì mà Nguyên soái phải dùng nhiều người như thế ! Cho đến con Giao Long dưới bể, một mình tôi cúng có thể giết được kia mà !

Ba quân nghe nói giật mình, tranh nhau đến xem kẻ nào đã táo bạo nói câu ấy.
Về Đầu Trang Go down
  • Trả lời chủ đề này

Bài gửi by Admin Wed Apr 22, 2015 6:21 am

Hán Sở tranh hùng Empty Re: Hán Sở tranh hùng

Admin
Admin
Administrator
Administrator

Tổng số bài gửi : 5122
Points : 8388
Reputation : 1360
Join date : 21/11/2014
Đến từ : Tp.HCM

https://ccxiqi.forumvi.com
http://maxreading.com/sach-hay/han-so-tranh-hung
Về Đầu Trang Go down
  • Trả lời chủ đề này

Bài gửi by Nhất Kiếm Thu Apr 23, 2015 7:23 pm

Hán Sở tranh hùng Empty Re: Hán Sở tranh hùng

Nhất Kiếm
Nhất Kiếm
Starter
Starter

Tổng số bài gửi : 22
Points : 60
Reputation : 39
Join date : 15/04/2015
Đến từ : Sài Gòn

Vận khứ Ô Truy lâm nhược địa
Sở Bá Vương hề nại nhược hà?

Tây Sở Bá Vương - giữa lằn ranh sương khói của người Nhất Kiếm đồ Vương & một Nhân vật-thất bại-vĩ đại trong lịch sử. Người mà Nhất Kiếm vô cùng mến phục!  Smile
Xin trích lại 1 bài viếng mà NK đã từng đăng trên 1 diễn đàn:
Ai người ôm mộng bá đồ vương?
Hồng Câu hòa ước tiễn anh hùng
Ô Giang khóc thương người lỡ bước
Chí nguyện không thành biệt Giang Đông!! Sad

Hán Vương trong mắt NK cũng là bậc anh hùng. Tuy ko liệt vào hàng hôn quân, nhưng là kẻ bất nghĩa, chẳng những với người khác; mà còn với cả môn sinh, với những huynh đệ vào sinh ra tử của mình! Evil or Very Mad
Về Đầu Trang Go down
  • Trả lời chủ đề này

Bài gửi by honolulu88 Sat Apr 25, 2015 3:22 pm

Hán Sở tranh hùng Empty Re: Hán Sở tranh hùng

honolulu88
honolulu88
Starter
Starter

Tổng số bài gửi : 23
Points : 80
Reputation : 30
Join date : 17/04/2015

tiếc cho tây sở bá vương chiến thần hạng vũ, nhưng cũng trách người lm việc ko công tư phân minh, ko dc lòng dân,
Về Đầu Trang Go down
  • Trả lời chủ đề này

Bài gửi by honolulu88 Sat Apr 25, 2015 3:34 pm

Hán Sở tranh hùng Empty Re: Hán Sở tranh hùng

honolulu88
honolulu88
Starter
Starter

Tổng số bài gửi : 23
Points : 80
Reputation : 30
Join date : 17/04/2015

Hồng môn dạ  yến lập ra thực chât là để xử lưu bang tội vào hàm dương trước, cướp ấn soái của họ Hạng, nào ngờ Hạng lại mắc mưu ve sầu thoát xác của Chương lương ( nhân vật tài ba, điển tích củ kể về việc chương lương ba lần nhặt giầy cho 1 ông lão có ý lm rơi khi qua cầu, sau đó dc tiên ông nay truyền cho binh pháp bách chiến bách thắng ), ko nghe lời của á phụ Phạm tăng, dẫn đến kết cục thảm khốc tự sát chết đứng bên bờ sông Ô Giang, ko chịu quay về giang đông, lúc trước hạng vũ theo hạng lương lập nghiệp có thề rằng khi nào lm vua mới quay về giang đông ko thì xác chôn vùi cùng ngựa cỏ, ôi! Đáng tiếc, đáng tiếc
Chôn sống 20 v quân tần oan khí ngút trời
Đốt tích a phòng lửa rực cháy ngàn năm
Về Đầu Trang Go down
  • Trả lời chủ đề này

Bài gửi by honolulu88 Sat Apr 25, 2015 3:38 pm

Hán Sở tranh hùng Empty Re: Hán Sở tranh hùng

honolulu88
honolulu88
Starter
Starter

Tổng số bài gửi : 23
Points : 80
Reputation : 30
Join date : 17/04/2015

Họ Hạng cũng đc ví như Phụng tiên vậy, cũng dc người đời gọi là chiến thần
Ô truy thì sánh với xích thố
2 người này sinh ra để lm tướng thì dc chứ lm vua thì ko có phận

Nhân trung Lữ Bố
Mã trung xích thố
Về Đầu Trang Go down
  • Trả lời chủ đề này

Bài gửi by Sponsored content

Hán Sở tranh hùng Empty Re: Hán Sở tranh hùng


Sponsored content


Về Đầu Trang Go down
  • Trả lời chủ đề này

Trang 1 trong tổng số 2 trang 1, 2  Next

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang

- Similar topics

Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết